Các bài suy niệm Chúa nhật III thường niên – Năm B

CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN B

Lời Chúa: Gn 3,1-5.10; 1Cr 7,29-31; Mc 1,14-20

MỤC LỤC

1. Từ bỏ

2. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ

3. Sám hối

4. “Biết mình để sống đúng”

5. Năm mới người mới cả trời đất mới

6. Theo Chúa từ bỏ tất cả – Cố Lm. Hồng Phúc

7. Sám hối và tin vào Tin Mừng – Radio Veritas Asia

8. Thấy – Gọi – Bỏ – Theo

9. Đức Giêsu đến

10. Đáp trả lời mời gọi

11. Cộng tác với ơn Chúa

12. Đổi mới cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

13. Đôi tay của Chúa

14. Hãy theo Tôi

15. Sám hối

16. Hãy theo Tôi

17. Trở nên môn đệ

18. Chúa Giêsu công khai rao giảng – JKN

19. Tuyển quân – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

20. Bỏ nghề chài lưới mà theo Chúa Giêsu

21. Chúa cần

22. Cộng tác với ơn Chúa

23. Lời mời gọi

1. Từ bỏ

Sống là chọn lựa. Chọn lựa từng giây phút trước những hành động cuộc đời chúng ta. Và chọn lựa trước hết là gì? Nếu phải từ bỏ. Thực vậy, nếu muốn lên Saigon, thì phải từ bỏ con đường xuống Rạch Giá. Nếu muốn học giỏi, thì phải từ bỏ những tháng ngày lãng phí thời gian. Nếu muốn làm làm giàu, thì phải từ bỏ sự ươn lười, nhàn rỗi. Nếu muốn được cha mẹ yêu thương, thì phải từ bỏ những gì làm cho các ngài buồn lòng. Sống là chọn lựa và chọn lựa có nghĩa là từ bỏ.

Tiến vào đời sống siêu nhiên cũng thế. Muốn theo Chúa, muốn đáp trả lời mời gọi của Chúa, chúng ta phải chọn lựa, chúng ta cũng phải từ bỏ. Abraham ngày xưa đứng trước lệnh truyền của Chúa, ông đã phải từ bỏ quê hương và sự nghiệp để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không định hướng. Hơn thế nữa, ông còn sẵn sàng từ bỏ cả đứa con duy nhất, sẵn sàng sát tế Isaác để làm lễ vật dâng kính Thiên Chúa. Các tông đồ ngày hôm nay cũng vậy. Các ông đã bỏ cha già, bỏ gia đình, bỏ ghe thuyền, bỏ chài lưới nghĩa là các ông đã từ bỏ tất cả để lên đường theo Chúa. Hay như Phanxicô Khó Khăn, đã từ bỏ đến cả manh áo che thân trước sự ngăn cản của gia đình để được hoàn toàn tự do bước theo Chúa.

Từ bỏ gia đình, từ bỏ tiền bạc, từ bỏ thời giờ để theo Chúa đã là một chuyện khó, nhưng điều quan trọng hơn Chúa đòi chúng ta phải từ bỏ, đó là từ bỏ chính bản thân mình. Những sợi dây níu kéo chúng ta lại với mặt đất, những chướng ngại vật ngăn cản bước chân chúng ta theo Chúa, đó là những thói hư tật xấu, những đam mê tiền bạc hay những khát vọng không chính đáng. Để bước theo Chúa, việc đầu tiên mà chúng ta phải thực hiện đó là dứt bỏ những níu kéo ấy, là khử trừ những khuynh hướng lệch lạc, là từ bỏ những ước vọng trần tục. Từ bỏ tiền bạc, từ bỏ tiện nghi vật chất đã là chuyện khó, nhưng chưa đến nỗi cam go vì tiền bạc và vật chất là những cái còn ở bên ngoài chúng ta. Chứ từ bỏ những đam mê, những ước muốn xấu xa mới là chuyện cam go vì đam mê, và ước muốn bén rễ sâu trong con tim chúng ta. Nó làm thành chính bản tính, chính bộ mặt thực sự, chính cái phần sâu thẳm nhất nơi mỗi người chúng ta. Và đó cũng chính là điều mà Chúa đòi buộc chúng ta phải từ bỏ.

Nhưng tại sao chúng ta phải từ bỏ? Vì Chúa Giêsu đã dạy: Con đường vào Nước Trời thì nhỏ hẹp. Con đường nhỏ hẹp ấy chẳng phải là ngõ cụt, nhưng nó sẽ dẫn chúng ta đến hạnh phúc, đến biển cả của tình yêu là chính Thiên Chúa. Đã là một con đường nhỏ hẹp thì chúng ta không thể bước đi trên đó với những hành lý cồng kềnh. Và những hành lý cồng kềnh của chúng ta là gì nếu không phải là tiền bạc, vật chất, đam mê, khát vọng và thói hư tật xấu. Chúng ta phải từ bỏ thì mới có thể tiến bước. Như một người leo núi chỉ mang theo những dụng cụ tối thiểu nhưng cần thiết, nếu không thì người ấy mãi mãi chỉ ở dưới chân núi mà thôi. Hơn nữa Chúa Giêsu cũng đã nhắn nhủ: Nếu ai muốn cứu mạng sống thì sẽ mất, nghĩa là nếu chúng ta cứ bấu víu vào những thực tại trần thế, nếu chúng ta cứ nắm chặt lấy cuộc sống vật chất, thì chắc chắn chúng ta sẽ đánh mất cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta phải từ bỏ thì mới có thể được sống, như hạt lúa gieo trên ruộng đồng, phải mục nát thì mới đâm bông kết trái.

Một khi đã dứt bỏ được những níu kéo bên ngoài, một khi đã dứt khoát bỏ được những vấn vương bên trong. Một khi đã từ bỏ được những quyến luyến trần thế, một khi đã từ bỏ được những khát vọng bất chính, lúc bấy giờ chúng ta sẽ như một cánh chim bay bổng về với Chúa, lúc bấy giờ chúng ta mới chính thức chọn lựa Chúa. Bấy giờ chọn lựa sẽ không chỉ còn là một từ bỏ mà chọn lựa còn có nghĩa là nói chấp nhận.

Thực vậy, chúng ta chấp nhận Chúa, chúng ta chấp nhận con đường nhỏ hẹp, chúng ta chấp nhận thập giá trong cuộc sống. Muốn được như vậy thì chúng ta phải có một tình yêu, yêu mến Thiên Chúa, và với hương vị của tình yêu, chúng ta sẽ thắng vượt được mọi khó khăn. Với Chúa đi trong cuộc sống, chúng ta không còn bị thất bại. chúng ta sẽ thâu lượm những kết quả tốt đẹp như mẻ lưới lạ lùng của các môn đệ.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để mỗi người biết dẹp bỏ những cản trở trong cuộc sống, và để từng giây phút chúng ta chọn lựa, chúng ta chấp nhận và chúng ta bước theo Chúa.

2. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Khi bắt đầu thời kỳ công khai lên đường thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là tuyển chọn một số môn đệ nòng cốt để tiếp tay và nối gót Người rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.

Đây là một nhiệm vụ vô cùng trọng đại cao cả nhưng đồng thời cũng đầy gian truân và thách thức, thế nên cần phải tuyển cho được những ứng viên phù hợp.

Trong các thành phần dân chúng thời đó, chúng ta thấy nổi bật nhất là các tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Họ là những người ngày đêm ứng trực trong đền thờ lo việc thờ phượng tế lễ Thiên Chúa. Xem ra họ là những ứng viên sáng giá nhất cho công cuộc loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không chọn bất cứ ai trong số các vị ấy làm tông đồ xây dựng Hội Thánh Người.

Kế đó, thành phần Luật sĩ, những người học rộng và thông thạo thánh kinh. Có ai xứng đáng hơn họ trong việc giải thích và loan truyền Lời Chúa? Có ai giàu kiến thức về đạo lý bằng họ? Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn một ai trong số các vị nầy làm tông đồ của Người.

Thành phần thứ ba cũng rất sáng giá là các người biệt phái. Họ giữ luật rất nhiệm nhặt, có đời sống đạo rất nghiêm túc. Những người như thế cũng đáng làm đầu thiên hạ và lãnh đạo người ta. Thế mà Chúa Giêsu cũng không chọn bất cứ người biệt phái nào làm tông đồ cho Người.

Chúa Giêsu cũng không chọn những người có vai vế trong xã hội, những người giàu sang quyền quý làm môn đệ đầu tiên của Người.

Tin Mừng hôm nay cho thấy sự chọn lựa của Chúa Giêsu khiến chúng ta kinh ngạc:

“Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.

Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.”

Chúa Giêsu đã chọn bốn ngư phủ là Simon, An-rê, Gioan, Giacobê, làm môn đệ đầu tiên trong lúc họ đang quăng chài kéo lưới hoặc đang vá lưới trong thuyền. Tại sao?

Các ngư phủ là những người dạn dày sương gió. Họ quen chịu giá lạnh giữa biển khơi; từng trải qua những đêm tối giữa sóng gió trùng khơi; không sợ đói, không sợ rét, không sợ bão tố cuồng phong, không sợ cảnh chơi vơi giữa ba đào sóng gió. Nói chung, họ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ và nghịch cảnh để đạt cho bằng được nguyện vọng của mình.

Họ là những người đầu tiên được Chúa Giêsu chiếu cố và mời gọi làm môn đệ loan Tin Mừng, làm những trụ cột nòng cốt trong công trình xây dựng Hội Thánh.

Điều nầy cho thấy phẩm chất đầu tiên để làm môn đệ Chúa Giêsu là không ngại gian truân, sẵn sàng hy sinh để thực hiện mục tiêu mong muốn.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã kêu gọi chúng con làm tông đồ cho Chúa trong xã hội hôm nay. Xin ban ơn giúp chúng con sẵn sàng vượt khó, dám đương đầu với mọi thách thức và sóng gió như các môn đệ đầu tiên hầu có thể chu toàn trọng trách mà Chúa và Hội Thánh trao phó cho chúng con.

3. Sám hối

Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.

Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về thành Ninivê mà bài đọc thứ nhất hôm nay đã gợi lại. Bấy giờ Chúa phán với ông Giona: Hãy chỗi dậy, đi đến Ninivê, kinh thành vĩ đại và công bố cho hay điều Ta sẽ truyền cho ngươi. Ninivê là một thành phố rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đàng. Ông Giona mới đi rảo trong thành có một ngày và công bố: Còn 40 ngày nữa thì Ninivê sẽ bị tan phá. Dân chúng tin vào Thiên Chúa. Họ công bố lệnh ăn chay và tất cả mọi người từ lớn chí bé đều mặc áo vải thô. Chúa thấy việc họ làm, từ bỏ đường gian ác, thì đã tha thứ và không trừng phạt họ nữa. Đó là câu chuyện xảy ra trong Cựu Ước. Dân thành Ninivê thực thi sứ điệp tiên tri Giona truyền dạy, đó là ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi và đã được Chúa thứ tha.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã kêu gọi chúng ta như thế: Nước Thiên Chúa đã đến gần, nên phải sám hối và tin vào Phúc Âm. Chúa Giêsu rất nhiều lần đã cho chúng ta thấy: Là Đấng thánh thiện Ngài ghét bỏ tội lỗi, nhưng lại tỏ ra khoan dung và nhân từ đối với các tội nhân. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử lên đường tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Và khi tìm thấy, thì vui mừng vác nó trên vai, đem về nhà. Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc bị đánh rơi và khi tìm thấy thì mời chị em lối xóm đến chia vui với mình.

Thế nhưng để được Chúa tha thứ, Ngài đòi hỏi chúng ta một điều kiện đó là hãy sám hối quay trở về với Ngài. Phúc Âm đã kể lại câu chuyện chàng trai phung phá. Trong bước đường truân chuyên gian khổ, chàng đã hối hận, quyết tâm lên đường trở về để rồi cuối cùng chàng đã được người cha tha thứ.

Phúc Âm cũng đã cho chúng ta thấy sở dĩ Phêrô đã được tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội vì ông đã biết đấm ngực ăn năn về lầm lỗi của mình. Mađalena đã được tha thứ vì đã biết sám hối, khóc cho quãng đời tội lỗi của mình. Tên trộm lành cũng đã được tha thứ vì anh đã biết trở về với Chúa cho dù vào những giây phút cuối cùng.

Có một chàng trai, bất mãn với gia đình đã bỏ nhà đi bụi đời. Sau đó chàng hối hận muốn quay trở về nhưng không biết cha mẹ có sẵn sàng tha thứ cho hay không. Bởi đó chàng đã viết thư và nói nếu thầy mẹ sẵn sàng tha thứ thì đến ngày ấy giờ ấy hãy treo một tấm áo nơi cửa sổ. Nhận thấy tín hiệu ấy, chàng sẽ trở về. Vào ngày giờ đã quy định thầy mẹ chàng không những chỉ treo một tấm áo, mà trong nhà có bao nhiêu quần áo, rồi chăn mùng mền, tất cả đều được treo trên các khung cửa và chàng đã được đón nhận vào trong tình thương của gia đình.

Từ những điều vừa chia sẻ cha muốn đi tới một kết luận đó là hãy sám hối quay trở về cùng Chúa để được hưởng nhờ tình thương của Chúa bởi vì những tâm tình ăn năn là như một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.

4. “Biết mình để sống đúng”

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta vẫn thường tự hỏi: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của một đời người, nó quyết định phận số của một con người. Sống có ích cho xã hội hay trở thành gánh nặng cho xã hội cũng tuỳ thuộc vào chọn lựa cơ bản này của từng người chúng ta.

Người ta kể rằng: thuở xưa khi con người chưa biết soi gương trang điểm nên họ cũng chẳng biết mình là ai? Và khuôn mặt mình thế nào? Một lần kia, anh chồng lên tỉnh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cài đầu. Nhưng anh không biết cái trâm hình thù như thế nào. Chị vợ liền nhìn trời thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói: “Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên anh cứ nhìn lên ánh trăng thì sẽ nhớ.

Người chồng lên đường mải miết xem bao cảnh lạ ở tỉnh thành mãi mười ngày sau mới trở về quê nhà. Anh sực nhớ lời vợ dặn, anh liền nhìn lên trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm, anh liền vào tiệm và mua một cái gương tròn trịa như ánh trăng theo lời vợ dặn.

Lòng vui rộn ràng khi vừa về tới nhà vội trao cho vợ cái gương mà anh đã mua từ tỉnh thành. Tưởng rằng vợ sẽ vui mừng với món quà anh đưa về, thế nhưng, khi vừa nhìn vào đồ vật, cô vợ đã tức giận và quát tháo rằng: “Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh lại đem về một đứa con gái nào đây?”. Anh chồng giật mình, dành lại cái gương và nhìn xem chuyện gì xẩy ra. Anh nhìn vào gương lại thấy một người đàn ông trông giống bố mình hồi còn trẻ, nên anh phân bua rằng: Không, đây là bố tôi mà! Cô vợ dành lại và nói: bố ông bao giờ, con nào rõ ràng. Ông còn chối hả? Đính chính chẳng được, nên anh chồng đành bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi con dâu, và người con dâu đưa cho mẹ chồng coi bằng chứng rõ ràng thế mà anh chồng còn chối quanh quẩn. Mẹ chồng xem qua rồi trịnh trọng nói: Thôi đừng ghen nữa! Tao thấy con này không đáng ghen đâu. Tao thấy, nó cũng già lắm rồi!

Đó là câu chuyện vui nhưng cũng nói lên một chân lý: nếu không biết mình thì sẽ làm khổ mình và khổ người khác. Chúa Giê-su cũng từng nói: “Mù dắt mù thì cả hai đều rơi xuống hố”. Đó cũng là quang cảnh của xã hội chúng ta đang sống. Một xã hội đầy những bóng tối của tội lỗi, của sa đoạ, cúa ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù quáng để chạy theo những đam mê lầm lạc, lạc mất hướng đi của đời người, dìm mình trong bóng tối của danh lợi thú. Nhiều người đã không còn ý thức giá trị đạo đức con người nên họ sẵn sàng đánh mất phẩm giá của mình và chà đạp lên phẩm giá của người khác. Họ không còn biết mình là ai? Sống để làm gì? Họ như những người lạc hậu trong câu chuyện đã không biết mình, nên gây ra những mâu thuẫn, hiểu lầm không đáng có. Thực vậy, nhiều người trong xã hội hôm nay, đã không hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống nên buông thả trong những đam mê tội lỗi. Họ tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên, chết là hết nên chẳng cần sống theo lẽ phải, hay sống theo luân thường đạo lý, dẫn đến tội lỗi ngập tràn, cuộc sống đầy chiến tranh, loạn lạc.

Vì vậy, sứ điệp đầu tiên mà Chúa gửi đến nhân loại chính là: “Hãy sám hối”. Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ và chia rẽ để bước vào ánh sáng của yêu thương và hiệp nhất. Chúa Ky-tô chính là ánh sáng cho thế gian. Từ nay tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và ai theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.

Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của tin mừng sẽ phơi bày bộ mặt thật của mình nên che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình, và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tội lỗi vẫn lan tràn. Con người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính tội lỗi mình gây ra.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết nhìn lại mình để biết mình. Biết những giới hạn và bất toàn để sửa đổi. Biết những khiếm khuyết để bổ túc và canh tân. Biết tội lỗi mình để sám hối. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối từng ngày để canh tân đổi mới cuộc đời trong chân lý và tình yêu của Chúa. Amen.

5. Năm mới người mới cả trời đất mới

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Đức Yêsu rao giảng: “Đã đến thời. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Tết đã đến gần, đây cũng là dịp để mỗi người chúng ta nhìn lại mình trong năm vừa qua, để với năm mới chúng ta trở thành con người mới, bắt đầu một đời sống mới, một con người hạnh phúc với chính mình, dễ thương và quảng đại đối với người khác.

1) Đức nhân thắng số

“Đức nhân thắng số” là không chỉ là câu nói của đa số bình dân, nhưng cả của những người tin vào “tiền định,” tin vào “số mạng” nữa. Câu này có nghĩa: một người ăn ở có đức có nhân, thì sẽ đổi được số mạng của mình. Với những người tin vào “tiền định” hoặc “số mạng,” câu nói này thực hữu ích.

Trong cuộc đối thoại giữa Abraham và Thiên Chúa, người ta thấy chỉ cần mười người công chính có thể cứu được cả một thành phố gian ác đáng bị tru diệt (St.18, 32). Người tốt không chỉ cứu được mình, mà còn cứu được cả người khác nữa. Trong sách Giô-na hôm nay, dân thành Ninive đã đổi được ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền lệnh cho tiên tri Giô-na báo cho dân thành Ninive biết ý định huỷ diệt thành phố của Thiên Chúa, dân không chỉ tin vào lời tiên tri, nhưng còn tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa nữa, nên họ đã sám hối và được cứu. Như vậy, thái độ sống của con người có thể đổi được ý định của Thiên Chúa nữa. Cái “số” bị phạt của dân Sôđôma và dân Ninive, là do hậu quả của những hành vi bất chính của họ. Chính thái độ sống trong quá khứ của họ, mang lại “số phận” cho họ! Và cũng chính thái độ sống “hiện tại” của họ, đổi được “vận số” của họ! Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương nên Ngài chỉ muốn điều tốt cho con người; Ngài chỉ muốn con người sống yêu thương và hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ tự nhiên, và định cho nó có luật của nó, vật chất có luật vật lý; sinh vật sống theo bản năng, đây cũng là một loại luật của sinh vật; với con người, Ngài ban cho lý trí và ý muốn, để tự do và làm chủ tất cả. Yêu thương là hành vi vượt qua mọi định luật, hành vi yêu thương cứu được chính mình và cứu được người khác nữa. Chẳng hạn, hành vi yêu thương nuôi nấng dạy dỗ một em bé bị bỏ rõi, đổi được đời em bé và còn đổi được đời cả người nuôi em bé đó nữa.

2) Thế giới này đang qua đi

Con người không chỉ bị chi phối bởi luật vật lý tự nhiên, nhưng còn bị chi phối rất nhiều bởi những yếu tố tâm lý. Những hành vi làm vì muốn chứng minh mình trổi trang hơn người khác, những hành vi trả thù, v.v. là những hành vi “nô lệ.” Hận thù không được tha thứ, sẽ nối tiếp và chồng chất hận thù. Những người thực hiện những hành vi này bị nô lệ hoặc bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn “hèn hạ” mà thường họ không ý thức.

Thư của thánh Phao-lô hôm nay nhắc nhở con người một chân lý: thế gian này đang qua đi. Con người được sinh ra, lớn lên, già đi, và chết. Hiện tại, người ta biết mình; nhưng mười năm sau, còn ít người biết mình; một trăm năm sau, e rằng chẳng ai biết mình nữa. Nếu tất cả vật chất đang biến đổi, đang qua đi, thì tại sao người ta lại miệt mài, đam mê đi tìm kiếm vật chất hoặc những thú vui mau qua, hoặc thoả mãn chính mình!

Khi nhắc nhở con người về thực trạng “thế giới này đang qua đi,” thánh Phaolô muốn giúp con người nhận ra sự thật về chính mình, và nhắn nhủ con người hãy đi tìm cái gì cao quý và trường tồn. Như vậy điều quý không hệ nơi vật chất đang qua đi, nhưng là chính con người “vĩnh tồn” của mình. Những hành vi từng ngày làm nên chính con người của mình. Những hành vi yêu thương làm mình trở nên tuyệt vời ngay giữa trần thế đang qua đi này, và cũng làm mình tuyệt vời trong vĩnh cửu nữa.

3) Hãy sám hối và tin vào tình yêu Thiên Chúa.

Đức Yêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng lời rao giảng: “Thời giờ đã đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hành vi sám hối đi liền với hành vi nhận ra sự thật “không đẹp” của chính con người mình. Không thể có hành vi sám hối mà không có sự nhận thức đúng đắn về con người mình. Lời mời gọi sám hối, hàm chứa lời mời gọi xét lại chính con người của mình: tôi có thực sự là người tốt chưa, thành toàn chưa?

Tôi là người như thế nào đối với người ta, đối với tôi, và đối với Thiên Chúa. Có những người đi tìm và cố gắng trở thành “người tốt” theo đánh giá của người khác; những người này đang nô lệ mà không biết. Cũng có người đặt ra cho mình một giá trị, và cố gắng để thành người “thành toàn” theo ý họ; và khi họ không đạt được hoặc không làm chủ được họ hoàn toàn, họ thất vọng và buồn chán. Điều đúng đắn nhất là làm sao để mình đánh giá mình và mọi sự trong nhãn quan của Thiên Chúa Yêu Thương.

“Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cor.6, 2). Mỗi người hãy nhìn lên Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương, là Đấng chỉ biết yêu thương và làm tất cả vì yêu thương. Mỗi người cũng chỉ bị phán xét về duy một điều là mình có làm mọi sự vì yêu thương không thôi (Mt.25, 31tt). Những lầm lỗi trong quá khứ tuy quan trọng nhưng không quan trọng lắm. Điều rất quan trọng là tin vào Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương. Ngài mời gọi mỗi người hãy sống yêu thương như Ngài. Chính hành vi yêu thương làm mình triển nở, hạnh phúc, và cũng làm cho người khác triển nở và hạnh phúc. Những hành vi không làm cho người khác triển nở và hạnh phúc, e rằng đó không phải là hành vi yêu thương thật sự. Nếu tôi sống tốt lúc này, những người quanh tôi sống bình an; nếu tôi không sống tốt, làm hại người khác, thì làm những người đó khổ, và cả tôi cũng khổ, và những người thân yêu của tôi cũng không được thoải mái và hạnh phúc vì tôi. Yêu thương, là hành vi làm con người thành tuyệt vời.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn có tin vào số mạng không? Tin vào số mạng có hợp với đức tin Kitô giáo không? Tại sao?

2. Bạn có tin tử vi, coi bói, coi chỉ tay, tướng số không? Tại sao bạn tin và tại sao bạn không tin? Tin vào những điều này có hợp với đức tin Kitô giáo không?

3. Để là một con người mới, điểm chính yếu là gì?

6. Theo Chúa từ bỏ tất cả – Cố Lm. Hồng Phúc

Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta tiếp tục suy tư về mầu nhiệm ơn gọi.

Trong ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đi bước trước. Ngài đi qua, nhìn thấy và kêu gọi. Marcô nói: “Ngài đi lên núi và gọi những kẻ người muốn lại gần…” (3,13). Ngài chọn những ai Ngài muốn và không hẳn là những người xứng đáng nhất, vì không ai có thể tự cho là xứng đáng cả. Sau này, Ngài sẽ nhắc lại cho họ: “Không phải chúng con đã chọn Thầy, nhưng là Thầy đã chọn chúng con” (Gio. 15,16). Người kêu gọi họ tại chính nơi họ ở, chỗ họ làm việc: Bốn vị đầu tiên trong khoang thuyền, ngoài bãi biển, một vị khác ngay nơi bàn đổi bạc (2,14), và một vị khác đang đứng suy tư dưới bóng cây vả (Ga. 1,50)… Mỗi ơn gọi là một cử chỉ tình thương, Ngài đến với ta, đi tìm và tuyển chọn ta.

Và Người nói gì?

Một câu rất đơn sơ nhưng đầy ánh sáng: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người.” Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc chọn bạn đi chơi, một thời gian rồi tan hàng rã đám. Mà theo Ngài thì Ngài đòi hỏi rất nhiều. Đòi hỏi gì? Ngài đòi hỏi tất cả: phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi và từ bỏ cả mạng sống vì Ngài nữa!

Hỏi rằng, ngoài Chúa ra, có ai có thể đòi hỏi khắt khe như vậy? Có tình yêu nào ghen tị đến mức độ như vậy?

Văn hào Montalembert có một cô con gái dâng mình làm nữ tu. Ông viết: “Người tình ấy là ai, chết treo trên cây thập giá mà có thể lôi kéo như vậy? Người tình ấy là ai mà có một sức hấp dẫn không cưỡng lại được, như một con chim mồi sà xuống và cuốn đi? Phải chăng đó là một người? Không. Đó là Thiên Chúa. Đó là bí ẩn, đó là chìa khóa đưa vào cõi thâm sâu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thành công và đòi hỏi một cuộc hy sinh như thế.”

Bà Thánh Jeanne-Francoise Chantal (1572-1641) là một bà mẹ đạo đức. Sau khi chồng qua đời, bà lo nuôi dưỡng, giáo dục và tác thành cho bốn con, có nơi có chốn tự lập được. Bà nghe tiếng Chúa gọi sống đời tận hiến, giúp đỡ người nghèo. Nhưng ngày bà quyết định ra đi thì các con ngăn cản và nằm ngang chận cửa. Nước mắt tràn trụa, Bà nói: “Dầu sao tôi cũng là một Bà Mẹ”. Nhưng tình thương Chúa mạnh hơn tình mẫu tử, Bà bước qua con và đi Annecy, lập nên Dòng Thăm Viếng, tháng 6 năm 1610.

Họ ra đi theo tiếng gọi của Chúa, nhưng đối lại, Chúa hứa ban cho họ những gì? Thật lạ lùng! Ngài không hứa ban cho họ một cuộc sống dễ dãi đầy tiện nghi vì chính Ngài cũng “Không có một hòn đá gối đầu!” Ngài không hứa ban chức tước, đường hoạn lộ tiến thân, vì Ngài truyền dạy phải chọn chỗ tốt nhất, không được tự gọi là Thầy, là Cha mà chỉ là tôi tớ. Ngài không hứa ban cho một cuộc sống nhàn hạ, vì “ai đã ra tay cầm cày, thì không được ngó lui.” Vậy, Ngài hứa gì? Thưa: Một đời sống dấn thân phục vụ các linh hồn, một đời sống vất vả đi “chài lưới người”, bắt từng cá nhân, từng tập thể. Có những lúc thức trắng đêm mà không bắt được con cá nào, có những sáng tinh sương, chèo thuyền không về bế! “Thưa Thầy, chúng con mệt nhọc suốt đêm mà chẳng được gì?” Nhưng Chúa phán: “Hãy chèo ra khơi thả lưới”. Phêrô, đại diện các bạn trả lời: “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc. 5,5). Nhất là một lời hứa quan trọng nhất mà Ngài để lại cho các môn đệ ngày giã biệt ra đi vào chốn vinh quang: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho con thì con muốn rằng con ở đâu chúng cũng ở đấy với con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho con…” (Gio. 17,24). Cũng như lời hứa mà Đức Mẹ khi hiện ra ở Lộ Đức đã nói với Bernadetta, vị thụ khải của Mẹ: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc ở trần gian mà hạnh phúc trên trời.”

“Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi đường đi của Chúa,

Xin dạy bảo tôi về lối bước của Ngài.

Xin hướng dẫn tôi trong chân lý và dạy bảo tôi,

Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ tôi”

(Tv. 24,4 – Đáp ca)

7. Sám hối và tin vào Tin Mừng – Radio Veritas Asia

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nguyên một năm ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều riêng, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các tu sĩ của cộng đoàn nọ đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; một người thì ốm o buồn phiền. Cả hai đến trình diện trước Bề Trên cộng đoàn để chờ xem họ có xứng đáng được gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi suốt một năm qua, họ đã suy niệm về những gì.

Người ốm o buồn sầu cho biết:

– Trong năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội đã phạm, từng giây từng phút tôi nhớ đến những hình phạt sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.

Đến lượt mình, người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:

– Suốt một năm qua, từng giây từng phút, tôi hằng cảm tạ Chúa vì đã tha thứ cho tôi: tôi luôn nghĩ tới tình yêu của Ngài.

Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca cảm tạ tri ân tình yêu Chúa.

Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu của Chúa. Đó là cảm nhận của vua Đavít, của thánh Phêrô, của thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.

Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc.

Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Đạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy vọng. Đành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.

Ước gì Lời Chúa hôm nay ban sức sống để chúng ta không bị đè bẹp dưới sức nặng của tội lỗi, của yếu hèn. Xin cho chúng ta luôn tiến bước trong hân hoan và tin tưởng, vì biết rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương, không ngừng nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta.

8. Thấy – Gọi – Bỏ – Theo

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Suy niệm:

Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan

Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải rời bỏ gia đình ở Nadarét, phải chia tay với người mẹ thân yêu, phải từ giã nghề nghiệp mà mình đã theo đuổi mấy chục năm trời.

Sau khi nhận Thánh Thần từ trên xuống,

Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải lên đường

dấn thân cho sứ mạng do Cha ủy thác.

Vùng Galilê là vùng Ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (c.14).

Ngài mời người ta sám hối và tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng.(c.15).

Nhưng Đức Giêsu không nghĩ rằng mình có thể tự mình làm mọi sự.

Ngài cần người cộng tác, dù nước Ítraen chỉ là một nước bé nhỏ.

Đức Giêsu đi tìm môn đệ, và Ngài bắt gặp các anh đánh cá nơi hồ Galilê.

Có hai đôi anh em ruột đã lọt vào mắt của Ngài.

Ngài THẤY Phêrô và Anrê đang quăng lưới bắt cá.

“Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm các anh thành những kẻ lưới con người” (c. 17).

Đây là một mệnh lệnh nhưng cũng là một lời mời thân thương.

Ngài GỌI họ đi theo Ngài, theo chính con người của Ngài,

chứ không phải theo một lý tưởng hay một chủ nghĩa nào đó, dù là cao đẹp.

Theo Ngài sẽ dẫn đến một thay đổi lớn nơi họ: từ lưới cá đến lưới con người.

Bây giờ con người là mối bận tâm của họ, không phải là cá như xưa nữa.

Đức Giêsu cũng thấy cặp anh em ruột thứ hai là Giacôbê và Gioan.

Họ đang vá lưới trong khoang thuyền với người cha.

Khung cảnh cha con thật êm đềm, tưởng như chẳng gì có thể làm xáo trộn.

Tiếng gọi của Thầy Giêsu vang lên, gây cuộc chia ly.

Bốn anh đánh cá đầu tiên này đã BỎ để dáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu.

Họ đã bỏ chài lưới, bỏ nghề dánh cá, bỏ những thú vui của sông nước.

Hơn nữa họ còn bỏ gia đình, bỏ vợ, bỏ cha, để gắn bó với Thầy Giêsu.

Họ bỏ một giá trị để sống cho một Giá Trị lớn hơn,

bỏ một tình yêu để sống cho một Tình Yêu lớn hơn.

Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về sự đau đớn khi phải từ bỏ như vậy.

Nhưng bỏ chính là để THEO (cc. 18.20).

Theo một Đấng sống không chỗ tựa đầu, và bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.

Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những con người dám sống cho người khác,

dám bỏ lại những điều rất quý giá và thân thương,

dám bỏ lại cuộc sống ổn định và ấm êm, tiện nghi và dễ chịu.

Xin cho chúng ta nghe được tiếng gọi thì thầm của Ngài và vui sướng đáp lại.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,

một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,

để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội

trên một tảng đá mong manh,

để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con

theo Chúa, sống cho Chúa,

đặt Chúa lên trên mọi sự:

gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối

viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn,

đến những nơi bất ngờ,

vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,

bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,

hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

9. Đức Giêsu đến

(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. GB. Văn Hào SDB chuyển ngữ)

Thời kỳ đã mãn (Mc 1,15)

Có một lần người ta đã công bố, vào ngày 21 tháng 5 năm 2011, Đức Giêsu Kitô sẽ trở lại và phán xử vũ trụ. Lời tuyên bố rất rõ ràng, rất khẳng quyết và đầy xác tín. Đó là câu tuyên bố của ông Harold qua chương trình phát thanh về gia đình. Chương trình phát thanh đã quảng bá rộng khắp nguồn tin trên, kèm theo những lời cảnh báo. Một ít người đã tin, và đã phân phát tài sản của mình cho bạn bè, cho hàng xóm và cho cả những người không quen biết. Chúng ta thử nghĩ xem, ví dụ bạn đang có một căn nhà sang trọng, hay một chiếc xe hơi đắt tiền, bạn nghe lời cảnh báo, và sẵn sàng từ khước mọi sự, không màng đến những thứ đó nữa. Vào ngày 23 tháng 5, chương trình phát thanh này lại công bố một lần nữa và xác nhận là Harold đã nói đúng. Đức Kitô thực sự đã đến, nhưng theo như họ nói, Ngài đến một cách linh thiêng. Cuộc phán xử đã xảy ra, nhưng nó diễn ra trong âm thầm và bí mật.

Nhưng đây không phải là lần đầu tiên có người tuyên bố về ngày tận thế. Vào thế kỷ 19, ông William Miller cũng quy tụ một số thân hữu lại, và loan báo Chúa Kitô sẽ đến vào ngày 21 tháng 3 năm 1844. Nhiều người tin ông ta, và nóng lòng chờ đợi. Rồi ngày đó cũng qua đi. Một tín đồ của ông Miller sau đó lại khẳng quyết, ngày Chúa đến sẽ được hoãn lại cho tới 21 tháng 10 năm đó, và điều này đã được nói tới trong sách ngôn sứ Habacuc. Những người theo ông Miller, tức môn phái: “Chờ đợi ngày thứ bảy của Chúa”, vẫn kì vọng như thế và họ tin là việc Chúa đến đã được thực hiện. Nhưng theo họ, Chúa thực thi cuộc phán xét vũ trụ một cách thầm lặng chứ không theo cách thái thông thường như người ta vẫn nghĩ tưởng.

Tuy nhiên, chúng ta thấy tư tưởng của Harold và Miller, qua những hạn từ biểu tỏ sự chờ đợi và vui mừng, khá giống với tư tưởng của Thánh Phaolô, có lẽ hơn hẳn chúng ta. Thánh Phaolô cũng nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại một cách bất ngờ, và Đấng Cứu thế sẽ đến ngay trong thời đại của Ngài (1Thes 4,17). Tư tưởng xác quyết này càng rõ nét hơn trong thơ thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô, đặc biệt qua bài đọc phụng vụ của Chủ nhật hôm nay. Thánh Phaolô khởi đầu đoạn văn với lời khẳng quyết: “Thời gian chẳng còn bao lâu nữa” (1Cr 7,29). Ngài còn phác vẽ một viễn cảnh với năm lời khuyên dạy “Từ nay, ai có vợ hãy sống như không có, ai khóc lóc hãy làm như không khóc, ai vui mừng hãy sống như chẳng mừng vui, ai mua sắm hãy làm như không có gì cả, kẻ hưởng dùng của cải đời này hãy làm như chẳng hưởng.” Tóm kết những lời khuyên đó, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến động cơ và lý do phải hành xử như thế, chính là “Vì bộ mặt thế gian đang biến đi” (1Cr 7,31).

Thánh Phaolô đưa ra sứ điệp cấp thiết trên, quy chiếu vào lời hiệu triệu của Đức Giêsu khi Ngài khởi sự ngày đầu tiên đi rao giảng công khai. Marcô trình thuật lại lời kêu gọi và cảnh báo của Đức Giêsu, mà bài Tin mừng hôm nay nhắc tới “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”. Nơi cả 2 bản văn của Thánh Phaolô và của Thánh sử Marcô, ý niệm nói về “thời gian” hay “thời kỳ”, được dịch từ hạn từ Kairos. Từ ngữ Chronos cũng nói về thời gian, nhưng đơn giản ám chỉ về thời gian đang xảy ra trong hiện tại. Còn hạn từ Kairos lại nói về một thời kì đặc biệt, một thời cơ đem đến cho ta, hay một thời khắc quan trọng của cuộc sống, ví dụ lúc chúng ta đang rơi vào một khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy, hạn từ Kairos được dùng ở đây muốn nêu lên một điều quan trọng, đang xảy ra tại chính thời điểm này. Đức Giêsu công bố điều quan trọng đó, đó là thời kỳ Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ cho con người. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta phải sám hối. Sám hối, Metanoia, không phải chỉ là việc chúng ta từ bỏ tội lỗi. Nhưng trên hết, hành vi sám hối là một tư thế nội tâm, một động thái toàn diện nơi con người chúng ta để trở về với Chúa. Chúng ta phải quyết tâm định hướng lại, từ suy nghĩ, đến con tim và trọn cả đời sống, để quy về Thiên Chúa, đặt Ngài vào vị trí tối thượng nơi cuộc đời chúng ta. Nước Trời đã đến gần, và Nước Trời mà Chúa Giêsu gợi nhắc, mời gọi chúng ta phải thực sự biến đổi.

Thánh Marcô diễn tả lời gọi mời của Chúa Giêsu ngỏ trao cho bốn môn đệ đầu tiên, như là một sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Đó là một lời cầu ngỏ cách tự nguyện, nhưng cũng là một mệnh lệnh hiển thị qua uy quyền được diễn bày, mà con người không thể cưỡng lại. Mệnh lệnh đó cũng đòi hỏi chúng ta phải đáp trả, ngay hôm nay và ngay lúc này. Trên bờ biển Galilê, Chúa Giêsu đã thấy Phêrô và Anrê. Ngài truyền lệnh ” Hãy theo tôi”. Sau đó Ngài gặp Giacôbê và Gioan, và cũng gọi hai ông với cùng một dạng thức truyền lệnh giống như thế. Marcô thuật lại, ngay lập tức cả bốn ông bỏ thuyền và lưới để đi theo Ngài. Giacôbê và Gioan còn bỏ lại cả cha của mình cùng những người làm công trên thuyền. Các ông bỏ lại tất cả để đến với Chúa. Uy quyền Đức Giêsu đã hoàn toàn chinh phục các ông.

Harold và William Miller đã tiên đoán sai. Thánh Phaolô thì không dám khẳng quyết ngày giờ chính xác Đức Kitô sẽ trở lại, cho dầu vị tông đồ vẫn kì vọng Chúa sẽ đến ngay trong thời đại của Ngài. Sự kỳ vọng đó hiển nhiên cũng sai. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, chúng ta thấy lời khuyên dạy của Thánh Phaolô và của Chúa Giêsu vạch dẫn cho ta thấy rằng ” Tin mừng mà Chúa Giêsu đem đến sẽ kiến tạo một thời kỳ mới, một Kairos mới nơi chính cuộc đời chúng ta. Tin mừng khuyến mời chúng ta, cũng giống như một chỉ lệnh rất mạnh mẽ, là hãy hoán cải, hãy quy hướng trọn vẹn cuộc sống chúng ta về với Chúa. Điều đó không phải vì ” thời gian hiện tại , tức chronos đang qua đi”, nhưng Kairos ” thời kỳ ân điển, thời cơ mà Chúa gửi đến để giúp ta hoán cải”, đang được ngỏ trao cho chúng ta, ngay bây giờ.

Có bao giờ bạn nghĩ rằng, ngày hôm nay với tất cả những gì chúng ta đang vui hưởng, những niềm vui, những nét đẹp, những mơ ước chúng ta đang có…. được đồng hóa với thời điểm cùng tận vũ trụ mà chúng ta đang phải đối diện hay không? Giao ước tình yêu của Đức Giêsu mới thật sự là thời điểm sau cùng, là thực tại cánh chung, là giai đoạn cuối của lịch sử cứu độ. Giai đoạn cùng tận và thời điểm cánh chung đó không phải là lúc chúng ta phải buông xuôi tất cả, giã từ tất cả. Nhưng trên hết, đó là thời kỳ ân điển được hiến trao, để chúng ta mạnh mẽ đi vào thế giới hôm nay, với sức mạnh và lời gọi mời khẩn thiết của Đức Giêsu luôn vang vọng bên tai mỗi người: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng.

10. Đáp trả lời mời gọi

Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy các môn đệ đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, ngày kia Chúa Giêsu đi dạo trên bờ hồ, Ngài nhìn thấy Simon và Andrê đang thả lưới dưới biển. Ngài bèn lên tiếng gọi: Hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người. Lập tức các ông đã bỏ ghe thuyền chài lưới mà đi theo Chúa Giêsu.

Đi được một quãng, Ngài thấy Giacôbê và Gioan đang vá lưới dưới thuyền với cha là Giêbêđê. Ngài cũng lên tiếng gọi: Hãy theo ta. Lập tức các ông đứng dậy, bỏ cha già ở lại với những người làm công mà đi theo Chúa Giêsu.

Lần khác, tại Capharnaum, Chúa Giêsu đi ngang qua một bàn thu thuế, nhìn thấy Matthêu, Ngài liền phán: Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu.

Từ những sự kiện cụ thể ấy, chúng ta thấy, trước hết là Chúa Giêsu. Ngài đã không chọn lựa những con người giàu sang và quyền thế, học rộng và biết nhiều. Trái lại Ngài đã chọn lựa những kẻ nghèo túng và đơn sơ làm môn đệ của Ngài. Ngài biết các ông thiếu khả năng và bị hạn hẹp rất nhiều. Nhưng đồng thời Ngài cũng thấy các ông là những người quảng đại và hết sức nhiệt tình. Chính vì sự quảng đại và nhiệt tình này, Ngài đã bắt tay vào công việc giáo dục các ông. Cắt nghĩa riêng cho các ông thấu hiểu giáo lý Tin mừng. Trao ban quyền hành và sai các ông đi thực tập truyền giáo, để rồi cuối cùng đã ủy thác cho các ông sứ mạng chèo lái con thuyền Giáo Hội. Trong khi chọn lựa các môn đệ, có lẽ Chúa Giêsu đã nghĩ tới Giáo Hội, và nhất là có lẽ Ngài đã nghĩ tới chúng ta, và muốn nói với mỗi người rằng: Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các con trở thành những kẻ chinh phục người khác…

Tiếp đến là các môn đệ. Lúc đầu có lẽ các ông chưa hiểu được sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như con đường mà Ngài sẽ dẫn dắt các ông. Tuy nhiên các ông xác tín rằng Chúa cần đến các ông và các ông đã mau mắn quảng đại đáp trả tiếng Chúa gọi, bằng cách từ bỏ ghe thuyền và chài lưới, cha già và nhà cửa, bàn giấy và nghề nghiệp để đi theo Chúa.

Với chúng ta ngày hôm nay cũng vậy. Điều quan trọng và cần thiết đó là chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa gọi, nhất là phải mau mắn và quảng đại đáp trả tiếng gọi ấy. Chúa nói với chúng ta qua những biến cố xảy ra, cũng như qua những người mà chúng ta có dịp tiếp xúc với. Chúng ta có thể đáp trả bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, chúng ta có thể đáp trả bằng những hành động bác ái và yêu thương. Thực vậy, Chúa cũng kêu mời chúng ta phục vụ Ngài nơi những người anh em, thế nhưng chúng ta đã mau mắn và quảng đại đáp trả hay chưa?

11. Cộng tác với ơn Chúa

Hãy sám hối và tin vào Phúc âm.

Sau khi nghe bài đọc thứ nhất, tôi tự hỏi: Nhờ vào đâu mà dân thành Ninivê đã được Chúa tha thứ, được thoát khỏi hình phạt nặng nề giáng xuống trên họ.

Tôi xin thưa: là nhờ vào tâm tình sám hối.

Thực vậy, trước lời cảnh cáo của tiên tri Giona, họ đã ăn năn và từ bỏ con đường tội lỗi, để rồi đã được hưởng nhờ lòng khoan dung nhân hậu của Chúa. Chính vì thế, khi bắt đầu cuộc sống công khai Chúa Giêsu đã kêu gọi:

– Hãy sám hối và tin vào Phúc âm.

Qua lời kêu gọi ngắn ngủi này, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Đúng thế, có lần thánh Augustinô phát biểu:

– Để tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Bởi vì Ngài sẽ không thể nào cứu chuộc chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.

Sự cộng tác của chúng ta, mặc dù rất nhỏ bé, nhưng lại là một yếu tố quan trọng và có tầm mức quyết định.

Cũng trong chiều hướng đó, chúng ta thấy tâm tình sám hối ăn năn, chính là sự cộng tác của chúng ta vào với ơn Chúa, chính là như một thứ tiền bạc thiêng liêng để chúng ta mua lấy ơn tha thứ.

Chàng trai phung phá sở dĩ đã được người cha đón nhận, là vì chàng đã có can đảm chỗi dậy, trở về nhà cha. Phêrô sở dĩ đã được Chúa tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội, là vì ông đã biết đấm ngực sau những lầm lỗi của mình. Mađalêna sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là vì nàng đã biết khóc thương cho quãng đời nhơ nhuốc trong dĩ vãng. Anh trộm lành trên thập giá, sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là bởi vì anh đã quyết tâm trở về cùng Chúa, mặc dù chỉ trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời.

Nếu như giòng nước rửa tội tẩy xóa mọi dấu vết của tội nguyên tổ, thì những giọt nước mắt ăn năn sám hối, cũng chính là một thứ nước có sức gột rửa những dấu vết của tội lỗi mà chúng ta đã trót vấp phạm. Để nói lên sự cần thiết phải cộng tác với ơn Chúa, tôi xin kể lại một mẩu chuyện sau đây:

Sau khi cuộc thế chiến lần thứ hai kết thúc, có một toán lính đồng minh đi giúp những người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ vỡ. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bom đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt một ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Sau khi dựng bức tượng lên, viên sĩ quan đã ghi lại một hàng chữ như sau:

– Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.

Một người đau khổ nghèo túng kêu cầu Chúa, và cần đến chúng ta để an ủi và giúp đỡ họ. Chúa dùng bàn tay của chúng ta để xoa dịu những nỗi bất hạnh của người khác.

Cuộc sống của chúng ta phải là một sự nối tiếp công trình của Chúa, phải là một sự kéo dài cho sự hiện diện đầy tình thương của Ngài cho đến tận cùng thời gian.

Chúa đã chết trên thập giá để lập nên kho tàng cứu độ, thế nhưng, chúng ta phải biết giơ bàn tay lên để đón nhận ơn cứu độ ấy cho bản thân và cho những người chung quanh của chúng ta.

12. Đổi mới cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Nhiều lần đài phát thanh, truyền hình, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt động của anh Thảo Đàn ở thành phố Hồ chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là một trẻ của đường phố, bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý. Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng với việc làm lại cuộc đời cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức từ thiện, anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh giáo dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các em bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào đời sống xã hội.

Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống. Không biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong các bài sách thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Gio-na kêu gọi dân thành Ninivê đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi dân Do thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các môn đệ bước theo Đức Giêsu trong một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành qua ba bước.

Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi.

Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức tỉnh, nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự nguy hại của tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình đang đứng bên bờ vực thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau khi nghe tiên tri Giona rao giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng xét mình. Xét mình giống như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong tâm hồn, phơi bày ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc đào bới những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.

Bước thứ hai: Sám hối.

Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi giống như ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay vào quét dọn sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối như chiếc dao mổ của bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh tật. Sám hối càng mãnh liệt, tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa, linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt, dân thành Ninivê đã bảo nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu nguyện, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận ơn Chúa.

Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời.

Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới,trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến với anh em.

Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy nhận biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm đổi mới, ta sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn đã được đổi mới.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài của chúng con.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: “Quả thật, Đức Giê su là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người.” Hiện nay, Đức Giê su đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào?

2) Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn…..).

3) Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?

13. Đôi tay của Chúa

(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)

Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và sự tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay quân đội Đức quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng minh cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.

Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được, vì các mảnh vỡ quá vụn nát. Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn của những người dân trong làng, mà còn thu hút nhiều khách du lịch đến vùng này để đọc tận mắt hàng chữ đầy ý nghĩa. Anh chị em có đoán được hàng chữ này không? Đó là: “Chính bạn là đôi tay của Chúa”.

Thiên Chúa cần con người. Chúa Giêsu cần chúng ta như đôi tay nối dài của Ngài. Chúa Giêsu muốn dùng chúng ta như đôi tay để tiếp tục sứ mạng của Ngài. Trước khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng ở vùng Galilê, chắc Ngài đã nghĩ đến việc chiêu mộ các môn đệ để tiếp tay với Ngài. Làm sao để mọi người biết rằng đã đến thời viên mãn, Nước Thiên Chúa đã gần kề? Làm sao để mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng? Chúa Giêsu biết rõ giới hạn của mình. Ngài cần những người cộng tác để làm tròn sứ mạng Chúa Con trao. Ngài cần đến từng người chúng ta, một viên gạch nhỏ nhưng cần thiết cho cả tòa nhà. Chẳng có ai là thừa, chẳng có ai là vô dụng.

“Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy”, đó là mệnh lệnh của Chúa Phục Sinh. Ngài vẫn cần đến chúng ta ngày nào thế giới này còn một người chưa thành môn đệ của Ngài. Chính vì thế, Chúa Giêsu hôm nay vẫn ngỏ lời với từng người chúng ta. Ngài muốn tôi trở thành sự hiện diện của Ngài cho anh em tôi ở đây, hôm nay.

Ngày xưa, lúc đang đi dọc theo bờ biển hồ Galilê, Chúa Giêsu đã thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc. Họ có đôi lần tiếp xúc với Ngài và chắc có lần đã được nghe Ngài giảng và chứng kiến các phép lạ Ngài làm, kể từ sau lần được Gioan Tẩy Giả giới thiệu. Chúa Giêsu thấy họ đang làm việc hoặc quăng chài dưới biển để đánh cá hoặc đang ngồi trong thuyền với cha để vá lưới. Chúa Giêsu chắc đã đứng lâu nhìn những cảnh tượng đầy tình người này với cặp mắt yêu thương. Đẹp biết bao hình ảnh con người làm chung với nhau một việc. Họ có tinh thần tập thể và sau này họ sẽ còn làm việc chung với nhau trên chiếc thuyền lớn là Giáo Hội.

Chúa Giêsu đã thấy Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy chúng ta. Trước khi kêu gọi chúng ta, Ngài đã ngắm nhìn chúng ta rất lâu. Hạnh phúc cho người nào được thấy Thiên Chúa, nhưng cũng phải nói thêm, hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa thấy, được lọt vào ánh mắt của Ngài. Chúa Giêsu hôm nay đang thấy chúng ta. Chúng ta thế nào, Ngài thấy chúng ta thế ấy. Cái nhìn của Ngài không làm chúng ta bị tê liệt, vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người chúng ta, cả cái yếu đuối và tội lỗi của chúng ta nữa. Chúng ta không cần phải son phấn, phải ăn mặc đúng một thời trang để gợi sự chú ý của Ngài. Chính cái thô thiển mộc mạc của ta đã thu hút Ngài.

Chúa Giêsu hôm nay bắt gặp chúng ta lúc chúng ta đang làm một việc gì đó, đang mải mê với một dự tính tốt đẹp. Ngài gặp chúng ta không phải chỉ trong lúc đọc kinh, dự lễ, những ngay giữa chợ đời xô bồ, giữa cái lam lũ vất vả của đời thường, giữa cái bon chen vật lộn của cuộc sống. Cuộc gặp gỡ thật bất ngờ. Có thể điều chúng ta phải dứt bỏ đầu tiên là công việc ta ưa thích và đang làm, là bầu khí gia đình ấm áp mà ta đang tận hưởng.

Ở đất nước chúng ta, ơn gọi thường được hiểu là ơn sống đời tu sĩ hay linh mục. Thật ra ơn gọi làm vợ, làm chồng, ơn gọi làm cha, làm mẹ. Ơn gọi ấy thật là cao quý và nhiều khó khăn không kém ơn gọi tu sĩ, linh mục. Tin Mừng hôm nay dành cho mọi Kitô hữu, dù sống ở bậc nào đi nữa. Tất cả chúng ta đều được gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu “Các anh hãy theo Tôi”. Đây là lời mời gọi. Ơn gọi khởi xướng từ một tiếng gọi của Thầy Giêsu. Chúa Giêsu mời gọi Kitô hữu đi theo Ngài. Không phải chỉ là đi theo một lý tưởng hay theo một mục đích cao đẹp, mà là đi theo chính con người của Ngài. Ơn gọi Kitô hữu là gắn bó với Chúa Giêsu, nhận Ngài là trung tâm và chóp đỉnh của đời mình.

“Tôi sẽ làm cho anh em trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Một cuộc biến đổi thực sự, từ lưới cá đến lưới người, từ ngư phủ thành Tông đồ. Chỉ Chúa Giêsu mới làm được cuộc biến đổi đó. Khi được mời gọi gắn bó với Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi gắn bó với con người. Bởi, con người là mối bận tâm chủ yếu của Chúa Giêsu. Theo Ngài là cùng chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại và đồng bào, đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ.

“Chính bạn là đôi tay của Chúa”. Chính chúng ta phải là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu. Sứ mạng cứu độ của Chúa là một sứ mạng thiêng liêng, nhưng sứ mạng ấy cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi giao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội, qua các Tông đồ, qua hàng giáo phẩm, giáo sĩ và mỗi Kitô hữu chúng ta. Nhờ những hoạt động bằng đôi tay cụ thể của chúng ta, Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền Tin Mừng Nước Trời, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Là chi thể của Giáo Hội, Thân Mình Mầu Nhiệm của Chúa Kitô, một Kitô hữu cũng là đôi tay rộng mở của Chúa Kitô, nhờ đó, Ngài không ngừng giải tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.

14. Hãy theo Tôi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Bốn anh thanh niên có gia đình, có nghề nghiệp lại được Đức Giêsu mời gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả. Chắc chắn họ không phải là những người nhẹ dạ. Họ đã từng quen biết Thầy Giêsu và kính nể Ngài. Đến lúc nào đó, khi được Ngài hoàn toàn chinh phục, họ đã sẵn sàng ra đi, nhẹ tênh.

Nhiều người nghĩ rằng đoạn Tin Mừng này nói về ơn gọi đi tu của các linh mục tu sĩ. Thật ra đây là đoạn Tin Mừng nói về ơn gọi của từng Kitô hữu chúng ta.

Chúa Giêsu vẫn đi ngang qua đời ta mỗi ngày như xưa Ngài đã dọc theo biển hồ Ga-li-lê. Ngài thấy ta như Ngài đã thấy bốn môn đệ. Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài. Cái nhìn của Ngài không làm ta bị tê liệt vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người của ta. Cả những yếu đuối và tội lỗi cũng được Ngài đón nhận. Hạnh phúc cho ai được thấy Thiên Chúa. Nhưng hơn nữa, hạnh phúc cho ai được Thiên Chúa thấy.

Lúc Ngài thấy ta thì ta vẫn không hay biết. Ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới. Ta vẫn tất bật với những lo toan đời thường, hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ. Chính lúc đó, chính lúc ta tưởng mình quá ư ổn định, và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng, thì tiếng gọi của Ngài vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.

Hãy theo tôi!

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu. Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ. Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống.

Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới con người.

Con người là điều ta phải quan tâm, vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Chúa Giêsu.

Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng, là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong công việc cứu độ toàn thế giới.

Chúa Giêsu mời ta dấn thân vào cuộc đổi đời, mời ta định lại hướng đi theo những giá trị mới. Như thế là chấp nhận đổ vỡ, đoạn tuyệt.

Bốn môn đệ đã bỏ lại biển cả và những người thân yêu. Vợ con của Simon và cha của Giacôbê sẽ sống thế nào? Mái nhà nay vắng bóng những người đàn ông cột trụ!

Hôm nay Chúa Giêsu vẫn cần bạn, vì bạn là Kitô hữu. Ngài vẫn thấy bạn, và mời gọi bạn đáp lại mỗi ngày.

Cần trầm lắng mới nghe được tiếng thì thầm của Chúa. Bạn có thể sống như một giáo dân bình thường. lo xây dựng gia đình, sự nghiệp, tương lai. Nhưng bạn phải sẵn sàng từ bỏ khi cần, nghĩa là chọn Chúa, đặt Chúa lên trên mọi giá trị đó.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ: “Quả thật, Đức Giêsu là người bạn khó tính. Ngài chỉ cho ta những đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Ngài, bằng cách trao phó cho Ngài trọn cuộc sống.” Hiện nay, Ngài đang mời bạn chinh phục đỉnh cao nào trong cuộc sống?

Để theo Đức Giêsu, cần phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn? Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn…)?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

Chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

15. Sám hối

“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng là gì? Có gì quan trọng mà người ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó? Sám hối và lòng tin đi đôi với nhau như hai con mắt cùng nhìn vào một đối vật, sám hối sửa soạn cho lòng tin, lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối. Sám hối gồm hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực là nhận về quá khứ, nhìn lại dĩ vãng, để thấy đường mình đã đi, cuộc đời mình đã sống như thế nào, đúng hay sai, tốt hay xấu. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai để sống đúng hơn và tốt hơn. Người sám hối trở nên khiêm tốn, bé nhỏ, từ bỏ mình, để đặt tất cả niềm tin vào sự công chính của Nước Trời, vào ơn cứu độ do Tin Mừng đem đến, còn tin là trao hiến, tin ai và tin điều gì? Chúng ta hãy tìm hiểu nội dung của Tin Mừng gồm những vấn đề gì mà chúng ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó. Chúng ta có thể tóm lược nội dung của Tin Mừng vào hai phạm vi luân lý và giáo lý.

Về phạm vi luân lý: chúng ta thấy Tin Mừng đã đề cập tới những vấn đề quan trọng sau: Thứ nhất, về hôn nhân, Chúa Giêsu đã lập luận hôn nhân bất khả phân ly và nhất phu nhất phụ: mỗi người chỉ được một vợ một chồng và phải trung thành chung thủy với nhau cho đến chết. Thứ hai, Chúa Giêsu đã đề cao tinh thần nghèo khó: người nghèo khó được Chúa chúc phúc, Chúa kêu gọi hãy nghèo của nhưng không nghèo lòng, ngược lại, người giàu của mà không giàu lòng thì khó vào nước trời như con lạc đà trước lỗ kim. Thứ ba, về luật lao động và tinh thần hợp tác, Chúa dạy: mọi người phải siêng năng làm việc để tự lực mưu sinh, lười biếng sẽ bị phạt, rồi phải biết cộng tác với nhau để cùng nhau thăng tiến. Thứ tư, vấn đề tiền của: tiền của nay còn mai mất, Chúa dạy: phải biết dùng tiền của làm phương tiện đi vào nước trời, mỗi người đừng quá đòi hỏi mà chỉ mong sao hằng ngày dùng đủ, rồi tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng, các tài nguyên thiên nhiên, hãy dùng chúng để kiến tạo hòa bình và biến gươm giáo thành cày cuốc. Thứ năm, để đảm bảo luật luân lý, Chúa dạy: mọi người phải coi nhau như anh em, phải yêu thương nhau, yêu thương cả kẻ thù nghịch với mình, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, mọi người phải tha thứ cho nhau. Thứ sáu, về vấn đề giáo dục trẻ em, Chúa dạy: phải yêu mến chúng, phải hướng dẫn chúng và không được làm gương mù gương xấu cho chúng, nước trời thuộc về những ai có tâm hồn đơn sơ như trẻ em. Thứ bảy, các nhân đức luân lý được đề cao: khôn ngoan, công bằng, vâng lời, tiết độ, kiên nhẫn, can đảm chịu đựng những đau khổ, khiêm nhường, hiền lành, trong sạch, phục vụ, tránh xa dịp tội và đứng làm gương mù. Tóm lại, mọi người là anh em, là con cái Thiên Chúa, mỗi người là chi thể trong một nhiệm thể, cho nên, phải dùng tình thương mà đối xử với nhau và yêu nhau như Chúa yêu chúng ta.

Về phạm vi giáo lý: Tin Mừng đã mạc khải cho chúng ta biết bốn điều quan trọng: Thứ nhất, một Thiên Chúa có Ba Ngôi, chúng ta chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa có Ba Ngôi: ngôi thứ nhất là Cha, là Đấng tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài, ngôi thứ hai là Con, là Chúa Giêsu Kitô, Đấng xuống thế làm người để cứu chuộc mọi người, ngôi thứ ba là Thánh Thần, Đấng thánh hóa, an ủi và giúp đỡ mọi người. Cả ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, bằng nhau mọi đàng. Thứ hai, Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là một người như mọi người, có cha có mẹ, có quê hương tổ quốc, có sinh có tử, có sống và chết như mọi người, Ngài giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi, nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha, Ngài đến trần gian để dạy dỗ và cứu chuộc loài người, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, ai tin theo Ngài sẽ được sự sống đời đời. Thứ ba, về Nước Thiên Chúa, Nước Trời, đây là nước hằng sống, vĩnh cửu, là thiên đàng, muốn vào Nước Thiên Chúa phải tin và thực hành đức tin chứ không thể chỉ nói “Lạy Chúa” mà vào được, nước Chúa có giá trị vô song, người ta phải hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống để chiếm hữu nó. Thứ tư, Tin Mừng cho biết về Giáo Hội qua những dụ ngôn người gieo giống, hạt giống tự mọc, hạt cải, tấm men, kho báu, viên ngọc quý, mẻ cá, bầy chiên… Giáo Hội có phẩm trật: Phêrô là đầu, tức Đức Giáo Hoàng sau này, các tông đồ, là các giám mục sau này, những vị lãnh đạo Giáo Hội được Chúa trao quyền cầm buộc và cởi mở, ai muốn đến với Chúa phải đến với Giáo Hội.

Có cuốn sách nào được người ta ham mộ, kính trọng như sách Tin Mừng không? Có sách nào tồn tại suốt 20 thế kỷ và bán chạy như sách Tin Mừng không? Sách Tin Mừng toàn bộ đã được dịch ra 236 thứ tiếng, và còn cả 100 thứ tiếng nữa đang sửa soạn để dịch Tin Mừng, có sách nào khích lệ, đổi mới con người bằng sách Tin Mừng không? Cho nên, vấn đề đặt ra cho chúng ta là chúng ta có đọc Tin Mừng hay không? Nếu chúng ta không chịu đọc thì sách có hay mấy cũng là không hay, cũng như đã gọi là thuốc hay mà chúng ta không dùng thuốc thì làm sao khỏi bệnh được? Chúng ta hãy nhớ: sách Tin Mừng là lời Thiên Chúa hằng sống, chúng ta có đọc, có sống Tin Mừng thì chúng ta mới thấy được sự sống ấy dồi dào ra sao, nơi đâu có ánh sáng Tin Mừng nơi ấy tràn đầy hy vọng cho hiện tại và tương lai. Ước mong mỗi gia đình đều có sách Tin Mừng, chúng ta có đủ thứ sách mà lại thiếu sách Tin Mừng thì thật đáng tiếc. Nhưng có sách mà không dùng, không đọc cũng như không có. Ước mong chúng ta hãy đọc và sống theo những điều chúng ta đọc, bảo đảm bản thân chúng ta và gia đình chúng ta sẽ tốt đẹp.

16. Hãy theo Tôi

Đoạn Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Chúa kêu gọi các ông: “Các anh hãy đi theo tôi”. Lời kêu gọi đó Chúa cũng nói với mỗi người chúng ta hôm nay.

Tin Mừng cho biết cả bốn môn đệ, bốn tông đồ đầu tiên ấy đều là những người chài lưới, và họ đang hành nghề trên biển hồ Galilê. Cho tới lúc đó, chưa bao giờ các ông đưa mắt nhìn xa quá tầm mắt quen thuộc với những công việc sinh nhai hằng ngày. Bây giờ Chúa Giêsu mời gọi các ông nhìn lên cao hơn và xa hơn. Ngài chỉ cho các ông thấy thế giới như biển cả mênh mông, phải vượt khắp đó đây để đánh lưới “sinh linh”. Sứ mệnh của các ông là đem các linh hồn về cho Chúa.

Nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ông đáp lại ngay và sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thiết thân nhất trong đời sống như nghề nghiệp và phương tiện sinh sống cùng với những mối liên hệ ruột thịt tự nhiên. Từ nay các ông sẽ có những bận tâm khác với những lo lắng trước đây. Các ông rời bỏ quê hương làng xóm, nơi chôn nhau cắt rốn, để đi đến những nơi Thầy sẽ sai đến. Quê hương các ông bây giờ là thế giới. Các ông từ bỏ gia đình ruột thịt quen thuộc, Thiên Chúa sẽ ban cho các ông một gia đình khác, gia đình các linh hồn mà các ông sắp cứu vớt. Các ông thoát ly hoàn toàn và dứt khoát.

Thực vậy, các tông đồ đầu tiên thoát ly mọi sự trước kia đã ràng buộc các ông là để gắn bó với Chúa Giêsu. Các ông đi theo Ngài một cách tin tưởng mà không hỏi xem Ngài sẽ dẫn các ông đi đâu và tương lai sẽ thế nào. Các ông đi theo Ngài để chia sẻ vui sướng, nhưng đồng thời cũng để đồng lao cộng khổ với Ngài. Các ông đi theo Ngài để lãnh nhận lời giáo huấn, lấy đó làm mẫu mực cho đời sống mình trước hết, để rồi sau đó tuyên xưng giáo thuyết của Ngài và truyền bá giáo thuyết đó cho mọi người.

Tóm lại, bốn tông đồ đầu tiên nói riêng và tất cả các tông đồ nói chung, đã thực thi mệnh lệnh “Hãy đi theo tôi” của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn. Các ông đã đi theo Chúa, sống bên Chúa, chứng kiến mọi việc Chúa làm, ghi nhớ những lời Chúa giảng dạy. Và khi Chúa về trời, các ông hăng say rao giảng về Chúa và giáo huấn của Chúa cho đến chết. Đó là đường lối mà các tông đồ đầu tiên và các tông đồ kế tiếp nhau đã làm đổi thay bộ mặt cũng như toàn bộ thế giới cho tới chúng ta ngày nay.

Nếu Chúa Giêsu đã quan tâm kêu gọi những người cộng sự trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng, thì điều đó có nghĩa là Ngài không muốn làm việc một mình mà muốn nước trời là một công trình có sự đóng góp của mọi người, nhất là qua ơn gọi thừa tác. Lời kêu gọi “Hãy đi theo tôi” hôm qua vang lên tai các tông đồ thì hôm nay vẫn còn vang lên trong nhịp sống Giáo hội và gửi đến chúng ta hằng ngày. Vấn đề là chúng ta có quan tâm lắng nghe và đáp ứng không?

Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được Chúa mời gọi theo Chúa, chúng ta đã thực sự là Kitô hữu rồi. Nhưng đời sống Kitô hữu không phải chỉ là tin những điều Giáo hội dạy, giữ những điều răn Chúa và Giáo hội truyền, và giữ như thế để được rỗi linh hồn. Cũng như các tông đồ xưa kia được kêu gọi không phải chỉ là để được “rỗi linh hồn”, nhưng còn là để cộng tác với Ngài. Người Kitô hữu cũng thế, được kêu gọi theo Chúa, không phải chúng ta chỉ lo cứu linh hồn mình, nghĩa là không phải chỉ là người giữ đạo, đọc kinh, đi lễ, nhưng phải là những tông đồ cho Chúa nữa. Dù ở bậc sống nào, dù không vào đoàn thể nào, dù ở bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng phải là những tông đồ của Chúa. Làm tông đồ trước tiên là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.

Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được nếp sống của những người chung quanh. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể thay đổi được vận mệnh của người khác, từ không biết Chúa đến nhận biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể làm cho mọi người từ tị hiềm ghen ghét đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc, nâng đỡ nhau.

Về điều này chính chúng ta đã kinh nghiệm hay chúng ta biết được qua kinh nghiệm của người khác. Câu truyện sau đây là một điển hình: Một hôm, thánh Cờ-lê-men-tê lững thững đi vào một quán ăn. Ngài giơ tay ra và nói: “Xin quí ông rộng lượng bố thí cho các em cô nhi một miếng ăn”. Tức thì các thực khách cười rộ lên. Một người tên là Uyn-déc (Wilszek) ngổ ngáo nói: “Một miếng ăn cho các em hả, được lắm”. Nói xong, anh ta nâng cốc bia lên uống, rồi phùng miệng phun thật mạnh vào mặt cha Cờ-lê-men-tê. Ngài điềm tĩnh lấy khăn mùi xoa ra lau mặt, rồi lại giơ hai tay ra và nói: “Thưa các ông, đó là phần của tôi. Còn phần của các em cô nhi đâu chưa thấy”. Uyn-déc như bị đấm một quả thôi sơn, té nhào xuống đất, anh ấp úng nói.

“Tôi…tôi…sẽ…gởi…tặng các em một món quà”. Quả thực, sau đó anh tự động đi lạc quyên giữa các bạn bè xa gần và đến trao cho thánh Cờ-lê-men-tê một món tiền lớn; và anh còn làm nhiều lần như thế.

Gương sáng, đời sống tốt đẹp có sức mạnh như thế đó. Xin Chúa cho chúng ta biết sống tốt đẹp, nêu gương sáng cho mọi người, trước tiên cho những người thân yêu trong gia đình bằng đời sống hòa thuận yêu thương nhau, hạnh phúc trong tình yêu mến Chúa và yêu mến nhau, rồi từ đó lan tỏa cho những người chung quanh.

17. Trở nên môn đệ

Thánh Marcô tạo ra cảm giác là lời kêu gọi các môn đệ đầu tiên là một sự kiện mang tính cách rất lễ nghi, và người được kêu gọi hoàn toàn bất ngờ, không được biết trước, hoặc có quan hệ gì với Đức Giêsu. Nhưng thánh Gioan cho thấy rằng không phải là trường hợp đó. Ngài giải thích rõ ràng rằng mối tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu trải qua một giai đoạn lớn lên và phát triển. Người ta không đi theo một người hoàn toàn xa lạ. Nếu như vậy, thì họ là những kẻ điên rồ.

Rõ ràng là cả bốn môn đệ (Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan) đã có quan hệ từ trước với Đức Giêsu. Chắc hẳn là họ bắt đầu bằng cách đứng trong đám đông, lắng nghe Người nói. Điều này đưa đến kết quả là họ thán phục Người, làm cho họ muốn được quen biết với Người một cách cá nhân. Một khi đã được gặp gỡ Người, và cảm thấy được sức thu hút nơi nhân cách của Người, thì họ đều bị lôi cuốn về phía Người. Từ đó, có thể họ quyết định đi theo Người.

Điều này giải thích nguyên nhân tại sao, khi cuối cùng Người kêu gọi họ, thì họ liền hưởng ứng ngay tức khắc và một cách trọn vẹn đến như vậy. Họ bỏ lại tất cả mọi sự – cách sinh nhai, tài sản, sự an toàn, những liên hệ gia đình – và tự hiến thân riêng biệt cho việc đi theo Đức Giêsu. Qua bao thời đại, nhiều kẻ tin đã thực hiện cũng lời cam kết này đối với Đức Kitô. Mặc dù lời kêu gọi “Hãy theo Thầy” của Người nghe giống như một lệnh truyền, nhưng tất nhiên, đó không phải là một lệnh truyền, mà là một lời mời gọi.

Những người đó là ai vậy? Họ là những người đánh cá, mà đánh cá là một công việc quan trọng. Nhưng Đức Giêsu mời gọi họ đến với một công việc thậm chí còn quan trọng hơn. Người đem đến cho họ không chỉ một công việc mới mẻ, nhưng còn là một nguyên cớ để rồi từ đó, họ hiến trọn cuộc đời mình. Họ biết rằng Người không kêu gọi họ đến với một cuộc sống dễ dãi. Trái lại là đàng khác. Nhưng vốn là những người đánh cá, họ đã từng quen thuộc với cảnh khó nhọc rồi.

Họ cũng hiểu rằng lời mời gọi của Đức Giêsu chính là lời mời gọi phục vụ người khác: “Thầy sẽ làm cho anh em trở thành những kẻ lưới người”. Khi những người lãnh đạo các giáo phái kêu gọi người ta đi theo họ, họ biến những kẻ đó thành nô lệ cho họ. Đức Giêsu kêu gọi các tông đồ, không phải để phục vụ bản thân Người, nhưng là để phục vụ những người khác.

Lời mời gọi của Người mang ý nghĩa hy sinh những kế hoạch riêng, những tham vọng, sự an toàn v.v… Đây là một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm, bởi vì họ đang chuyển từ công việc mà họ biết, để đến với một công việc mà họ không hề biết. Nhưng họ cũng biết rằng lời mời gọi của Người đem đến cho họ một cơ hội được sống một cuộc sống trọn vẹn hơn và xứng đáng hơn. Cho đến nay, họ đã có một nghề nghiệp. Bây giờ, họ có được một ơn gọi.

Một nghề nghiệp và một ơn gọi khác hẳn nhau, mặc dù không hề loại trừ lẫn nhau. Chúng ta vẫn có thể sống theo một ơn gọi, thông qua một nghề nghiệp cụ thể, chẳng hạn như làm giáo viên, y tá, bác sĩ… Nhưng không bao giờ một ơn gọi có thể đưa đến những hoạt động này. Ơn gọi mang nét gì đó sâu xa hơn, đòi hỏi một tầm nhìn, một động cơ, một sự tận tụy. Một nghề nghiệp thường mang ý nghĩa đưa con người đi xa hơn. Nhưng một ơn gọi có nghĩa là phục vụ những người khác.

Sự kiện các môn đệ chấp nhận thử thách này một cách hết lòng đến thế, nói lên cho chúng ta biết rất nhiều về tính cách con người của họ, mặc dù họ không phải là những siêu nhân, mà chỉ là những con người bình thường. Không ai có thể tin tưởng vào những con người bình thường, giống như Đức Giêsu đã tin. Để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, người ta không cần phải trở thành một con người đặc biệt.

Ngày nay, Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và nhu cầu hiện nay rất lớn. Vẫn có những người đáp trả lại lời mời gọi của Người. Một số người (giống như bốn môn đệ trên) được kêu gọi hoàn toàn hiến thân, và sống theo một cách thức “chuyên nghiệp” đi theo Đức Kitô. Nhưng không phải tất cả mọi Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Đức Kitô bằng cách này.

Ý tưởng về lời mời gọi trái ngược với nền văn hóa phổ biến hiện nay. Ngày nay, chúng ta nghĩ rằng mình vẫn có thể sống một cuộc sống không hề được kêu gọi – không cậy nhờ vào bất cứ mục đích nào bên ngoài bản thân mình. Thật không dễ dàng khi cho phép mình được chọn lựa. Khi để mặc một mình, chúng ta có khuynh hướng đi theo lối sống nào ít bị kháng cự nhất. Do đó, chúng ta cần có người nào đó thách đố chúng ta, người đó biết rõ những điều mà chúng ta ưa thích nhất, và sẽ không để cho chúng ta sắp xếp bất cứ thứ gì, mà khả năng của chúng ta chưa đạt tới.

Việc đi theo Đức Kitô có ý nghĩa gì đối với người bình thường? Điều đó có nghĩa là hãy là người Kitô hữu ngay tại nơi bạn đang sống, và theo nghề nghiệp mà bạn đã chọn lựa. Có nhiều cách thức phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Lời kêu gọi này ngay từ đầu không phải là trở nên người tông đồ, mà là trở nên môn đệ của Đức Kitô.

18. Chúa Giêsu công khai rao giảng – JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Đức Giêsu đến để xây dựng Nước Thiên Chúa. Bạn quan niệm Nước Thiên Chúa là gì? ở ngay trần gian này hay ở đời sau? Bản chất của nó là gì?

2. Bản chất của Nước Thiên Chúa chính là Tình Thương. Trong đời sống Kitô hữu, việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích rất quan trọng, nhưng so với việc thực hiện tình yêu thương thì việc nào quan trọng hơn? Cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cần phải quan trọng hóa hay làm nổi bật cái nào?

Suy tư gợi ý:

1. Đức Giêsu đến để xây dựng triều đại Thiên Chúa

Khi bắt đầu xuất hiện công khai để loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu tuyên bố với mọi người: «Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng». Ngài nói vậy nghĩa là gì? – «Thời kỳ đã mãn» nghĩa là đã hết một thời kỳ, và đã đến lúc bắt đầu một thời kỳ mới. Thời cũ là thời của Cựu Ước, với những tinh thần và luật lệ của Cựu Ước. Thời của Cựu Ước là thời chuẩn bị cho thời của Tân Ước. Và Đức Giêsu đến để khai mở thời kỳ Tân Ước, với những tinh thần và luật lệ mới của Tân Ước. Thời Tân Ước là thời xây dựng triều đại Thiên Chúa do Đức Giêsu chủ xướng và thiết lập. Ngài nói: «Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần». «Đã đến gần» có nghĩa là còn đang đến chứ chưa thành hiện thực. Triều đại ấy có thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào Đức Giêsu và những người cộng tác với Ngài.

2. Triều đại Thiên Chúa hay Nước Thiên Chúa là gì?

Triều đại Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn thiết lập là một kỷ nguyên mới, trong đó nhân loại được sống trong an bình hạnh phúc, nhờ biết yêu thương nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau. Ngài đã đưa ra một «điều răn mới» cho kỷ nguyên mới này: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34; x. 15,12.17). Và yêu thương phải trở thành dấu hiệu đặc trưng của những ai theo Ngài, đặc trưng đến nỗi chỉ việc nhìn vào tình thương họ dành cho nhau, mà mọi người nhận ra họ là người theo Ngài: «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,35). Ngài đã thiết lập Giáo Hội như một cộng đoàn đặc biệt của Ngài nhằm thực hiện Nước Thiên Chúa, trong đó, tình thương thống trị trong lòng mọi người, khiến mọi người trong cộng đoàn đó yêu thương và hy sinh cho nhau, coi nhau như anh chị em, nhờ đó họ luôn luôn đầy đủ và hạnh phúc. Và nhờ sự hấp dẫn luôn luôn có của tình thương, Giáo Hội ấy ngày càng mở rộng, và lan tràn khắp thế giới. Lúc ấy, thế giới sẽ trở thành Nước Thiên Chúa, ngay tại trần gian này. Ngài đã ban cho Giáo Hội những phương tiện rất hữu hiệu là các bí tích để thông ban sức mạnh thiêng liêng để con người thực hiện điều ấy.

3. Một lý do khiến Giáo Hội chưa thực hiện được Nước Thiên Chúa

Thế nhưng cho đến nay, nhìn vào Giáo Hội và thế giới, người ta không khỏi nghi ngờ: liệu việc xây dựng «Triều đại Thiên Chúa» hay «Nước Trời» của Đức Giêsu có thành tựu được không? Xem ra lý tưởng của Đức Giêsu vẫn còn xa vời lắm, mặc dù Giáo Hội đã nỗ lực thực hiện lý tưởng ấy suốt 2000 năm nay. Có thể một trong những lý do khiến chúng ta không thành công là chúng ta chưa quan tâm đủ đến sứ điệp trọng tâm của Đức Giêsu là tinh thần yêu thương, mà quá quan tâm đến những phương tiện – là việc cầu nguyện, các bí tích – để đạt được tinh thần ấy.

Quả thật, những phương tiện mà Đức Giêsu đặt ra rất cần thiết và hữu ích, nhưng dù thế nào chăng nữa, chúng vẫn chỉ là những phương tiện. Biến những phương tiện ấy thành mục đích hay cứu cánh là vô hiệu hóa chúng, thậm chí làm chúng biến chất, làm chúng trở nên có hại thay vì có lợi. Nếu «đồng tiền là một đầy tớ rất tốt, nhưng lại là một ông chủ rất xấu», thì tương tự như vậy: các phương tiện Đức Giêsu lập ra như các bí tích, việc cầu nguyện, v.v… là những phương tiện rất tốt, nhưng lại là những mục đích rất xấu. Nghĩa là nếu chúng ta nhắm mục đích rõ ràng là sống yêu thương nhau, và quyết tâm thực hiện sự yêu thương ấy, thì việc cầu nguyện và các bí tích sẽ là những phương tiện hết sức hữu hiệu để đạt được mục đích ấy. Còn nếu chúng ta coi chúng là mục đích, thì chúng sẽ trở thành những yếu tố phá hoại sự yêu thương ấy, cũng là phá hoại tôn giáo.

Khốn thay rất nhiều Kitô hữu không hề ý thức sứ điệp căn bản của Đức Giêsu là tình yêu thương, nên không mấy quan tâm tới điều chính yếu ấy. Họ chỉ chủ yếu quan tâm tới việc thực hành những phương tiện mà Đức Giêsu lập ra để đạt mục đích ấy, và coi việc thực hành những phương tiện ấy chính là bản chất việc sống đạo Kitô giáo. Họ đã biến phương tiện thành mục đích, vì thế, những phương tiện ấy chẳng những chẳng đạt được mục đích mà Đức Giêsu muốn chúng đạt được, mà chúng lại trở thành một thế lực ngăn cản con người đạt đến mục đích ấy. Thật vậy, biết bao Kitô hữu cảm thấy mình đạo đức chỉ vì đã đi lễ hằng ngày, rất siêng năng lãnh nhận các bí tích, rất chuyên cần đọc kinh cầu nguyện… đang khi họ đối xử với tha nhân, thậm chí với cả những người trong gia đình mình, chẳng mấy tốt đẹp. Như thế họ đã quan niệm sai lầm về việc sống đạo, nhất là về bản chất của Kitô giáo. Điều này thiết tưởng những người có nhiệm vụ rao giảng, dạy dỗ trong Giáo Hội phải chịu trách nhiệm phần nào!

4. Để xây dựng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu cần những người cộng tác

Ngay khi bắt đầu sứ mạng loan báo và xây dựng Nước Thiên Chúa, việc đầu tiên Đức Giêsu phải làm là tìm những người có tâm huyết cộng tác với Ngài. Chắc hẳn những người được Ngài mời gọi theo Ngài làm tông đồ, Ngài đã nhận ra nhiệt huyết của họ trong những lần Ngài nói chuyện với dân chúng về Nước Trời trước đó. Vì thế, khi Ngài mời gọi họ, họ lập tức bỏ mọi sự để lên đường theo Ngài ngay. Và với 12 môn đệ – tức 12 người cộng tác đắc lực – được Ngài tuyển chọn, Ngài đã lập nên cả một Giáo Hội phát triển rộng lớn như ngày nay. Sau 20 thế kỷ khởi công xây dựng Nước Thiên Chúa, người theo Đức Giêsu hiện nay trên thế giới tuy rất đông nhưng dẫu sao vẫn còn rất ít ỏi so với số lượng đáng lẽ phải đạt được. Vì hiện nay số người Kitô hữu mới chỉ chiếm 1/3 dân số thế giới. Đó là nói về số lượng, còn chất lượng người Kitô hữu thì sao? Bao nhiêu phần trăm Kitô hữu thật sự sống tinh thần yêu thương của Đức Giêsu đúng như Ngài đã truyền: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34)? Đối với thế giới, Kitô giáo có phải là một biểu tượng hay gương mẫu của tình thương, của sự khoan dung, hay chỉ là biểu tượng của lễ nghi, của sự khắt khe, không khoan nhượng?

Thời nào Đức Giêsu cũng cần những người có tâm huyết cộng tác với Ngài. Và chắc chắn thời nào cũng không thiếu những con người nhiệt tình sẵn sàng hy sinh cho công cuộc của Ngài. Nhưng nhiệt huyết xuông, không đủ, chúng ta cần phải đi đúng đường lối của Ngài. Nếu không, nỗ lực của Giáo Hội chúng ta sẽ chỉ là những nỗ lực kiểu «dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì». Thiết tưởng chúng ta cần phải nắm vững cái nào là cái chính yếu, cái nào là cái phụ thuộc; cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện; cái nào là bản chất, cái nào là hiện tượng. Nhờ phân biệt rõ ràng như thế, chúng ta mới biết hy sinh cái phụ thuộc cho cái chính yếu, coi nhẹ phương tiện hơn mục đích, coi trọng bản chất hơn hiện tượng.

Cứ thử xét cách dùng danh từ của nhà đạo chúng ta thì biết chúng ta đã quan trọng hóa cái gì: cái chính yếu hay cái phụ thuộc? Chúng ta gọi những việc cầu nguyện hay bí tích là những «việc đạo đức». Điều đó khiến nhiều Kitô hữu lầm tưởng rằng cứ cầu nguyện hay lãnh nhận các bí tích cho nhiều là trở thành người đạo đức. Nhưng thật ra rất nhiều người làm được như vậy một cách rất gương mẫu, nhưng chẳng ai mến phục chỉ vì họ sống thiếu tình thương. Thực ra đạo đức được thể hiện trong chính cuộc sống thường ngày: trong cách cư xử, cách làm việc, cách nói năng… Một người có đạo đức khác với những người không đạo đức chủ yếu ở trong chính cách cư xử, làm việc, nói năng… chứ không phải trong việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Vì thế, thiết tưởng khi chúng ta làm những bổn phận hằng ngày như làm ăn buôn bán, quét nhà nấu ăn giặt giũ, tiếp xúc nói chuyện cư xử với mọi người…nếu chúng ta làm với tinh thần yêu thương vị tha, thì chính khi làm như vậy là ta thực hiện những việc đạo đức. Việc cầu nguyện và các bí tích giúp ta có ơn Chúa, có sức mạnh để làm những việc ấy với tinh thần yêu thương của Chúa, chứ chúng không thay thế tinh thần yêu thương ấy.

Cầu nguyện hay lãnh nhận các bí tích mà không thể hiện tình yêu thương trong cách cư xử, làm việc, ăn nói, suy nghĩ, thì giống như một người đi làm quần quật suốt ngày để có tiền, nhưng chẳng dùng số tiền ấy vào việc gì, cứ cất vào một chỗ để dành. Như thế tiền bạc ấy trở nên vô ích. Tiền bạc chỉ trở nên ích lợi và đem lại hạnh phúc khi được chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, cầu nguyện hay lãnh nhận bí tích chỉ có ích lợi và đem lại ơn cứu rỗi khi chúng nhắm thực hiện mục đích mà Chúa muốn là thể hiện tình yêu thương cách hữu hiệu.

Cầu nguyện

Lạy Cha, bản chất của Cha là Tình Yêu, và bản chất của Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập cũng là Tình Yêu. Do đó, tình yêu chính là mục đích và bản chất của Kitô giáo. Việc cầu nguyện, các bí tích chính là những phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục đích hay bản chất ấy. Xin Cha đừng để người Kitô hữu chúng con lầm lẫn mục đích với phương tiện, điều chính yếu với điều phụ thuộc. Có như vậy, Nước Trời mới thật sự hình thành tại trần gian này. Xin cho chính bản thân con ý thức điều đó.

19. Tuyển quân – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

“Đức Giêsu nói với họ: ‘Hãy theo Ta’, và họ đã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài” (Mc 1,17).

Cuối năm 1999, trước tình trạng thiếu hụt binh lính trong các đơn vị, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã đưa ra một quảng cáo rất hấp dẫn nhằm chiêu mộ thêm thanh niên nam nữ tòng quân giúp nước.

Ngũ Giác đài đã tặng một món tiền thưởng lên đến 6.000 đô la cho những ai tình nguyện gia nhập lục quân trong khoảng thời gian từ cuối tháng Tám cho đến 30 tháng 9. Tuy nhiên kể từ khi tung ra món tiền “câu người” cộng với những giao kèo cho đi học tại các ngành nghề thực dụng và cao cấp, rất bảo đảm cho cuộc sống tương lai sau khi giải ngũ, kết quả tuyển quân vẫn rất khiêm nhường: chưa tới 1,000 người. Trong khi đó, chỉ tiêu do Bộ quốc phòng đề ra là 6.000.

Người ta cho biết nguyên nhân của sự thiếu hụt binh lính, cũng như tình trạng đáp ứng không mấy sốt sắng, dù rằng quảng cáo rất hấp dẫn, là vì tình trạng kinh tế quá khả quan. Cuộc sống còn dễ thở, công việc không khó kiếm, nên đi lính làm gì. Với lại, cuộc đời quân kỷ ngày nay khá là gắt gao nên chẳng mấy ai hăng hái tham gia.

Mẫu tin thời sự, tình cờ xem thấy sau khi đọc qua bài Phúc âm Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ tiên khởi, đã gợi lên trong tôi đôi chút suy tư: có lẽ chưa lúc nào việc đi lính được ưu đãi như lúc này: vừa được tiền lại vừa được nhiều lợi lộc khác, sự chết chóc đổ máu không dễ gì sảy ra. Ấy thế mà chẳng mấy ai hưởng ứng. Lý do là vì sống đời dân sự vẫn tìm được nhiều tiền hơn. Thế mới hay cái gì lợi vẫn được người ta ưu tiên chọn lựa.

Riêng việc đi theo Chúa, khách quan mà nhận xét thì không thấy được đồng nào, thậm chí còn phải từ bỏ rất nhiều: bỏ thân bằng quyến thuộc, tài sản vật chất, dự tính riêng tư, có khi còn phải đối diện với khó khăn hiểm nguy, nhưng không hiểu sao theo tổng kết của Toà thánh thì chiều hướng gia tăng ơn gọi hiện nay rất lạc quan, nhất là tại các vùng Á châu.

Thử hỏi theo Chúa được lợi gì?

Ngày xưa, khi đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, các tông đồ Phêrô, Anrê, Gioan, Giacôbê đã phải bỏ lại cha mẹ và những người làm công quen biết. Họ phải giã từ luôn cả chiếc thuyền, tấm lưới, biển khơi, để theo một con người chỗ gối đầu không có, tài sản nổi chìm gì cũng không. Đã vậy, tình trạng no đói cũng thất thường, đến nỗi có hôm phải tuốt gié lúa mà ăn cho đầy bụng. Tương lai về tài chánh, kinh tế, an sinh không có gì hứa hẹn. Ấy thế mà còn phải đi theo Con Người đó suốt đời.

Đi lính hay tham gia phục vụ trong một tổ chức hành chánh nào thì cũng có những hạn kỳ nhất định. Ít là 2 hay 3 năm, nhiều là 40, 50 năm. Sau đó có thể giải ngũ để thực hiện những dự phóng của mình khi xưa. Còn bước theo Đức Giêsu là phải bước theo suốt cả cuộc đời. Không có tình trạng vài ba hôm rồi nghỉ, hay 5, 6 năm rồi thôi.

Ấy thế mà tại sao vẫn có không ít người đã “từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài”? Thử hỏi người ta muốn tìm điều chi bên kia sự từ bỏ? Trong mọi hành động hay bước đi của con người luôn luôn có đích tới, vậy đích tới của người theo Chúa Giêsu là gì?

Cuộc đời của con người hay được đan dệt bởi hai câu hỏi “sống để làm gì?” và “làm gì để sống?” Sự sống đây tất nhiên không chỉ thuần tuý sự sống của phần xác, được duy trì bằng ăn uống, hoạt động, ngủ nghỉ, nhưng còn là sự sống tâm linh-một sự sống chỉ được thăng hoa khi tìm ra ý nghĩa và giá trị của cuộc đời. Song, ý nghĩa cùng giá trị cao đẹp của cuộc đời con người lại không nằm nơi tiền tài, vật chất, dục tình, danh vọng, nghề nghiệp, nhưng là con người.

“Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi làm ngư phủ bắt người” (Mc 1,17). Phục vụ “con người” mới là lý tưởng và mục tiêu tiến tới. Trải dài trong lịch sử cứu độ, khi Thiên Chúa cất tiếng gọi hay chọn ai- dù là Abraham, Môisen, Samuen, Đức Maria, hay các tông đồ Phêrô, Gioan-không bao giờ chỉ để họ được hưởng phúc vinh, nhưng là để cộng tác trong tiến trình đưa mọi người vào chung hưởng Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương con người.

Để có thể thành công trên bước đường đem niềm hy vọng yêu thương đến cho mọi người và đưa mọi người về với cội nguồn yêu thương là Thiên Chúa, kẻ được gọi trước hết cần phải hướng đến, đón nhận, và bước theo một con người: Đức Giêsu. Đây chính là đích điểm của mọi đích điểm, giá trị trên mọi giá trị, và chính lộ của muôn vạn nẻo đường. Do đó trước khi có thể “chài lưới người” là phải “theo Ta”. Không thể nào tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời hay nhận rõ được giá trị của con người để mà đi “lưới” về, nếu không tin phục Đức Kitô.

Chỉ có Đức Kitô mới có thể làm cho một ngư phủ lưới cá thành một ngư phủ lưới người. Thế giới vạn vật có gì sánh được với giá trị siêu việt của con người. Thiên Chúa không đến thế gian để đánh bắt tôm cá hay cứu vớt một sinh vật nào khác ngoài con người. Cho nên đáp trả lời mời gọi cộng tác trao ban tình thương của Thiên Chúa cho con người là ta đang làm cho cuộc sống đời mình nên tốt đẹp, ý nghĩa.

Một lần kia, trên một bài báo, nhà tỉ phú George Soros đã than thở: “Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; tôi đang làm chủ số phận hay là nô lệ cho thành công? Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó; để giàu có tôi phải chịu căng thẳng trường kỳ; và để duy trì phú quí tôi phải chịu cảnh bất an liên tục, một sự bất an mà thiết tưởng kẻ nghèo khổ nhất hiện nay cũng chưa phải gánh chịu.”

Thế rồi một hôm kia, một tiếng gọi vang lên từ nơi thẳm sâu của tâm hồn George Soros. Trong âm thầm ông đã hành động. Ông chi viện hàng năm 300 triệu đô la cho người nghèo bên phương Đông, trợ giúp 50 triệu cho người Macedoine đang bị các nước chung quanh cô lập; ông chi 50 triệu cho thành phố Sarajevo trong việc tái thiết hệ thống cung cấp nước cho người di tản; ông còn trả tiền cho gần 30 ngàn khoa học gia thuộc khối cộng sản sau khi sụp đổ, để họ không cộng tác với những quốc gia khủng bố, chế tạo bom đạn nguyên tử, gây tang thương cho thế giới. Sau những công tác cứu trợ nhiều quốc gia và dân tộc, Soros tâm sự: “Chỉ từ khi biết yêu thương và chia sẻ, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự.”

Đúng vậy, chỉ khi biết yêu thương và phục vụ con người trong đường lối của Thiên Chúa, chúng ta mới cảm nếm được giá trị và ý nghĩa của đời mình.

20. Bỏ nghề chài lưới mà theo Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Jean-Christopher phó tế đã viết: “… Bốn người trên bờ hồ hôm đó cũng như chúng ta bây giờ, luôn tất bật sửa sang lại chài lưới, đến nỗi hầu như chúng ta biến thành những tên tù sai tình nguyện. Chúa Giêsu đến và giải thoát bốn người khỏi những chài lưới của họ. Tóm lại, chỉ bằng một lời, Người mời họ nhắm vào điều cốt yếu: Nước Trời đang đến gần”. Mở đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đây là lời kêu gọi khẩn thiết và quan trọng của Chúa Giêsu đối với mọi người. Bởi vì, sám hối và lòng tin đi đôi với nhau. Người sám hối trở nên bé nhỏ, khiêm tốn, để đặt tất cả niềm tin của mình vào bàn tay nhân từ của Thiên Chúa, vào sự thánh thiện của Ngài, vào hạnh phúc nước trời, vào sự cứu rỗi do Tin Mừng mang đến. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi con người sám hối và tin vào Tin mừng Ngài mang đến.Liền sau lời kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng, Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên: Phêrô và Anrê,Giacôbê và Gioan.

Để mở đầu cho sứ vụ công khai rao giảng nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình trong dòng sông Giođan. Ngài làm thế để nêu gương khiêm nhượng cho mọi người. Ngài rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Bước đầu để có lòng tin thực phải sám hối. Lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối. Sám hối và lòng tin như cặp song sinh. Sám hối là điều kiện cần thiết để trở nên tốt hơn. Như thế, sám hối có hai khía cạnh tiêu cực và tích cực. Khía cạnh tiêu cực, sám hối là quay trở về con đường xưa mình đã đi, quay về với chính lòng mình để xem thử những điều gì là đúng, những điều gì là sai, những điều gì là không phù hợp. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai, quyết tâm đổi mới, sống tốt hơn, đẹp hơn, hoàn thiện hơn, chính vì thế, người sám hối trở nên khiêm tốn: “Người nâng cao những người phận nhỏ và để những người giàu có trở về tay không” (Lc 1, 52-53). Người sám hối khi đó sẽ đặt hết lòng tin tưởng phó thác vào Chúa, vào hạnh phúc nước trời, vào sự công chính, vào ơn cứu độ Tin Mừng Chúa mang đến. Nên, khi tin vào Thiên Chúa, tin vào ơn cứu độ của Ngài, người ta sẵn sàng sám hối và như thế lòng tin càng được nâng cao, niềm tin trở nên vững mạnh hơn. Chúa mời gọi con người, loài người sám hối và tin vào Tin Mừng Ngài mang đến cho nhân loại, mang đến cho mỗi người.

Cái lạ lùng vẫn là Chúa kêu gọi các môn đệ đi theo Ngài. Chúa kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng. Chương trình cứu chuộc của Chúa không chỉ nguyên Chúa là đủ, nhưng Ngài còn nhờ vào bàn tay nối dài của nhiều người, nhiều môn đệ, nhiều tông đồ. Do đó, nỗi ưu tư hàng đầu của Ngài là tuyển chọn các môn đệ: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc 1, 17). Chúa gọi bốn môn đệ trong khi các người này đang bận rộn với công việc thường ngày là đánh bắt cá ở biển. Công việc của các ông lúc đó là kiếm được nhiều cá để bán lấy tiền nuôi sống bản thân, nuôi sống cha mẹ, gia đình của mình. Nhưng từ đây theo Chúa: Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan và sau này các môn đệ khác sẽ chuyển đổi nghề: từ việc đang làm là đánh bắt cá dưới biển, các ông sẽ trở thành những ngư phủ đánh cá người khắp thế giới. Nghe tiếng Chúa gọi, Tin Mừng nói rõ, các ông bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Cuộc đời của các môn đệ từ đây là vâng nghe lời Chúa dạy, các ông đã hăng say đi khắp mọi nơi rao giảng Tin Mừng, đưa nhiều người về với Chúa và về với Giáo Hội. Sở dĩ các ông đã làm được công việc đó, vì các ông đã sống và chia sẻ niềm tin cho những người khác. Tuy nhiên kết quả thế nào, điều đó, do Chúa quyết định: “Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xi thả lưới” (Lc 5, 5). Và rồi kết quả thế nào, mọi người đều biết: cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá ngoài sức tưởng tượng của các ông.

Cái huyền diệu và hết sức ấn tượng, lạ lùng vẫn là có nhiều tâm hồn quảng đại dấn thân rao giảng nước Thiên Chúa. Ngay từ thời các tông đồ, Chúa gọi họ, nghe tiếng Chúa, họ sẵn sàng bỏ mọi sự, bỏ cả cái nghề hái ra tiền để theo Chúa Giêsu. Phải chẳng Đức Giêsu có một lực hấp dẫn đến nỗi làm cho các môn đệ say mê, bỏ mọi sự mà theo Ngài? Đúng là Đức Giêsu đã cho các môn đệ thấy Tin Mừng là Ngài đang ở giữa họ. Do đó, họ không bám víu những gì sẵn có, đang có, nên bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Họ đã sống niềm tin: “Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”. Họ đã thực hiện như Gioan Tẩy Giả đã làm: họ trở nên chứng nhân hữu hiệu cho nước Thiên Chúa. Ngày nay, người môn đệ Chúa phải sống cái cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương, chia sẻ. Do đó, người môn đệ Chúa, tin và sống Tin Mừng hằng ngày và phải chia sẻ, thực hiện Tin Mừng nơi đời sống của mình bởi vì: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”. Jean-Christoper viết tiếp: “Đã từ lâu rồi, chúng ta nghe Tin mừng? Chúng ta đã làm gì với những chài lưới của chúng ta? Chúng ta đã lấy những cớ nào để trói chân chúng ta vào đó? Bốn người môn đệ đầu tiên đã biết đứng dậy và đi theo Chúa Giêsu, họ đã dám bỏ lại những gì đã xiềng xích họ. Họ đã không sợ. Họ cũng không suy nghĩ gì, họ để Chúa làm. Và nếu chúng ta cũng để Chúa làm nơi chúng ta thì sao? Và nếu chúng ta đặt lại những gì chúng ta cho là ưu tiên, và để Chúa đúng vào vị trí của Chúa, vị trí hàng đầu! Mà không quên rằng, để phục vụ Chúa, để gặp được Người, chính là phải phục vụ tha nhân… Chúa Giêsu đang ở trên đường chúng ta đi, Người sáp nhập chúng ta vào công việc của Người: Trở nên những kẻ lưới người”.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Ai đã giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả?

2. Vai trò của Gioan Tẩy Giả?

3. Ai đã giới thiệu Simon cho Chúa Giêsu?

4. Chúa Giêsu đã kêu gọi mấy môn đệ đầu tiên đi theo Ngài?

21. Chúa cần

Hôm đó, Chúa Giêsu đang đi dạo trên bờ biển, Ngài thấy bóng dáng quen thuộc của những người đánh cá… Có đôi lần họ đã tiếp xúc với Ngài, cũng như đã nghe Ngài giảng dạy.

Lúc này kẻ thì đang quăng chài, người thì đang vá lưới. Chúa Giêsu đã nhìn họ với cặp mắt yêu thương và rồi đã lên tiếng kêu gọi:

– Các con hãy theo Ta.

Và như thế, ơn gọi khởi đi từ một lời kêu mời của Chúa.

Nơi người Do thái, cũng như nơi các dân tộc khác, người ta thường tìm thày học đạo. Còn ở đây, chính Chúa Giêsu đi tìm các môn đệ như lời Ngài đã xác quyết:

– Không phải các con chọn Thày, nhưng chính Thày đã chọn các con…

Sở dĩ như vậy là vì Ngài biết rõ những giới hạn của mình trong thời gian và không gian. Ngài cần đến những người cộng tác với Ngài để làm tròn sứ mạng Chúa Cha đã trao phó.

Với chúng ta cũng thế. Rất có thể lúc này Ngài cũng đang nhìn chúng ta bằng cặp mắt trìu mến. Không phải chỉ hạnh phúc cho người nào được thấy Chúa, mà còn phải nói thêm hạnh phúc cho người nào được Chúa nhìn thấy, được lọt vào ánh mắt yêu thương của Ngài. Chúa Giêsu đang nhìn chúng ta, chúng ta thế nào thì Ngài thấy chúng ta thế ấy. Cái nhìn của Ngài không làm cho chúng ta bị tê liệt, bởi vì Ngài chấp nhận thân phận bất toàn và yếu đuối của chúng ta. Cho nên, chúng ta không cần phải tô son điểm phấn, chính cái đơn sơ và chân thành của chúng ta mới thu hút Ngài. Ngài nhìn chúng ta, đồng thời qua cái nhìn ấy, Ngài cũng muốn kêu mời chúng ta trở thành những môn đệ, những cộng tác viên của Ngài.

Ngày xưa các môn đệ đã từ bỏ cha già, ghe thuyền, chài lưới cùng với những vui buồn của kiếp sống trên sông nước mà đi theo Chúa. Còn chúng ta, liệu chúng ta có dám từ bỏ để đi theo Chúa hay không?

Bởi vì sự từ bỏ luôn là một điều kiện gắn liền với ơn gọi của người môn đệ:

– Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Ta.

Dĩ nhiên Ngài không đòi hỏi mọi người phải từ bỏ gia đình, phải từ bỏ nghề nghiệp để đi theo Ngài trong nếp sống tu trì, nhưng Ngài đòi hỏi mọi người phải từ bỏ mình với sự ích kỷ của bản thân, với sự chai đá của tâm hồn, với sự xơ cứng của con tim, với những thành kiến của trí khôn.

Sự từ bỏ nào cũng để lại những đớn đau, nhưng nhờ đó chúng ta sẽ được lớn lên và trở thành những môn đệ, những cộng tác viên của Chúa, như hạt lúa phải mục nát thì mới sinh nhiều bông hạt.

Trong khi thu dọn ngôi nhà thờ bị đổ nát do chiến tranh gây nên. Từ những mảnh vụn, người ta đã dựng lại tượng chịu nạn. Thế nhưng tượng này lại thiếu mất hai bàn tay. Người ta tìm mãi tìm hoài trong đống gạch vụn mà cũng chẳng thấy. Cuối cùng người ta đành chịu vậy. Thế nhưng, một viên sĩ quan đã ghi lại hàng chữ dưới chân tượng như sau:

– Vì đôi tay của Chúa không còn nữa, nên dân làng hãy thay Chúa làm những công việc mà lẽ ra đôi bàn tay Chúa vốn thường làm.

Lúc này Chúa đang nhìn chúng ta, Ngài lên tiếng kêu mời chúng ta bước theo Ngài để trở thành những môn đệ, những cộng tác viên, những cánh tay nối dài của Ngài trong chương trình cứu độ.

Con người chúng ta thật là cao cả, bởi vì được Thiên Chúa cần đến. Phải, Ngài cần đến từng người chúng ta như một viên gạch nhỏ cần thiết cho tòa nhà và chẳng có ai là thừa thãi và vô dụng cả.

22. Cộng tác với ơn Chúa

“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”

Sau khi nghe bài đọc thứ nhất, tôi tự hỏi: Nhờ vào đâu mà dân thành Ninivê đã được Chúa tha thứ, được thoát khỏi hình phạt nặng nề giáng xuống trên họ.

Tôi xin thưa: là nhờ vào tâm tình sám hối.

Thực vậy, trước lời cảnh cáo của tiên tri Giona, họ đã ăn năn và từ bỏ con đường tội lỗi, để rồi đã được hưởng nhờ lòng khoan dung nhân hậu của Chúa. Chính vì thế, khi bắt đầu cuộc sống công khai Chúa Giêsu đã kêu gọi:

– Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.

Qua lời kêu gọi ngắn ngủi này, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Đúng thế, có lần thánh Augustinô phát biểu:

– Để tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Bởi vì Ngài sẽ không thể nào cứu chuộc chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.

Sự cộng tác của chúng ta, mặc dù rất nhỏ bé, nhưng lại là một yếu tố quan trọng và có tầm mức quyết định.

Cũng trong chiều hướng đó, chúng ta thấy tâm tình sám hối ăn năn, chính là sự cộng tác của chúng ta vào với ơn Chúa, chính là như một thứ tiền bạc thiêng liêng để chúng ta mua lấy ơn tha thứ.

Chàng trai phung phá sở dĩ đã được người cha đón nhận, là vì chàng đã có can đảm chỗi dậy, trở về nhà cha. Phêrô sở dĩ đã được Chúa tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội, là vì ông đã biết đấm ngực sau những lầm lỗi của mình. Mađalêna sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là vì nàng đã biết khóc thương cho quãng đời nhơ nhuốc trong dĩ vãng. Anh trộm lành trên thập giá, sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là bởi vì anh đã quyết tâm trở về cùng Chúa, mặc dù chỉ trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời.

Nếu như giòng nước rửa tội tẩy xóa mọi dấu vết của tội nguyên tổ, thì những giọt nước mắt ăn năn sám hối, cũng chính là một thứ nước có sức gột rửa những dấu vết của tội lỗi mà chúng ta đã trót vấp phạm. Để nói lên sự cần thiết phải cộng tác với ơn Chúa, tôi xin kể lại một mẩu chuyện sau đây:

Sau khi cuộc thế chiến lần thứ hai kết thúc, có một toán lính đồng minh đi giúp những người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ vỡ. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bom đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt một ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Sau khi dựng bức tượng lên, viên sĩ quan đã ghi lại một hàng chữ như sau:

– Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.

Một người đau khổ nghèo túng kêu cầu Chúa, và cần đến chúng ta để an ủi và giúp đỡ họ. Chúa dùng bàn tay của chúng ta để xoa dịu những nỗi bất hạnh của người khác.

Cuộc sống của chúng ta phải là một sự nối tiếp công trình của Chúa, phải là một sự kéo dài cho sự hiện diện đầy tình thương của Ngài cho đến tận cùng thời gian.

Chúa đã chết trên thập giá để lập nên kho tàng cứu độ, thế nhưng, chúng ta phải biết giơ bàn tay lên để đón nhận ơn cứu độ ấy cho bản thân và cho những người chung quanh của chúng ta.

23. Lời mời gọi

Chủ đề về sự thống hối là một trong những chủ đề chính của các bài đọc hôm nay. Chúng ta nhận thấy cách thế ngôn sứ Giô-Na rao giảng về sự thống hối cho thành phố ngoại đạo của Ninivê, và đã gặp được một sự đáp ứng ngay tức khắc và hết mình. Đức Giêsu cũng bắt đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nhưng thật không may, Người đã không hề gặp được một cách đáp ứng tương tự.

Nhiều người nhận thấy rằng ý tưởng thống hối là một ý tưởng gây rắc rối. Thống hối có nghĩa là thay đổi tầm nhìn của người đó về cuộc sống, và điều chỉnh những hành động của mình một cách phù hợp. Điều đó có nghĩa là thay đổi tâm hồn và thay đổi lối sống, có lẽ là hoàn toàn thay đổi cuộc sống của mình, theo chiều ngược lại. Như thế, sự thống hối nối kết với cảm giác đau đớn. Đó là lý do tại sao người ta chậm đi theo sự thống hối, và chỉ muốn được yên thân.

Có một câu chuyện từ những ngày mà đạo Công giáo vừa mới đến Rôma. Câu chuyện này liên quan đến một người lính Rôma, tên là Livinius, đã yêu một thiếu nữ Công giáo. Tuy nhiên, nàng không đồng ý yêu người lính đó, bởi vì anh ta không phải là người Công giáo. Một đêm kia, anh ta đi theo nàng đến một nơi gặp gỡ bí mật của một nhóm Kitô hữu nhỏ, tại đó, không để cho bất cứ ai nhận ra mình, anh ta lắng nghe phụng vụ.

Khi được nghe đến lời rao giảng của thánh Phêrô, có một điều gì đó xảy ra nơi tâm hồn của anh. Một tầm nhìn mới về cuộc sống mở ra trước mặt anh. Nhưng anh biết ngay rằng nếu anh đi theo lời giảng dạy này, thì anh sẽ phải bỏ đi những tư tưởng, thói quen, mục đích và tính cách cũ của mình. Thế rồi anh ta sẽ phải sống theo một lối sống hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta không biết rằng anh ta có đủ yêu người thiếu nữ đó, đến nỗi chịu thay đổi lối sống của anh ta đến thế không.

Đó là một ví dụ về sự thống hối – quay lưng lại với những điều rõ ràng là xấu xa, chẳng hạn như nghiện ngập, bất lương, loạn luân. Nhưng đây chỉ là một loại thống hối mà thôi. Cũng có một sự thống hối được chuyển thành lòng tốt. Ở đây, sự thay đổi không nhất thiết phải mạnh mẽ, quyết liệt. Sự thay đổi có thể xuất phát từ một lối sống hoàn toàn ích kỷ, đến một lối sống yêu thương và quan tâm hơn. Loại thay đổi này cũng gây ra sự đau xót. Ai muốn giũ khỏi lối sống theo nhục dục, tìm kiếm tiện nghi, và nuông chiều bản thân?

Sự thống hối là điều gì đó chủ yếu là tích cực. Thật vậy, thống hối là thừa nhận rằng tất cả mọi sự nơi bản thân mình đều chưa tốt đẹp. Nhưng cũng là khám phá rằng con người mình có một điều gì đó tuyệt vời, nghĩa là có những tiềm năng, mà mình chưa biết là mình có. Điều này có nghĩa là người đó đang đạt được một tầm nhìn mới, đang đi theo một đường hướng mới, tự mình theo đuổi những mục đích xứng đáng hơn, sống theo những giá trị tốt đẹp hơn. Nói tóm lại, điều này mở ra một lối sống mới.

Không ai có thể đạt được lối sống mới một cách nhanh chóng và không hề đau xót gì cả, nếu không, tất cả mọi người đều sẽ chọn lựa lối sống đó. Nói đúng hơn, điều này đưa đến một cuộc hành trình và đấu tranh, mà trong đó không ai hoàn toàn đạt được chiến thắng.

Không giống như sự ân hận, thống hối mở ra con đường tái sinh. Khi thấu hiểu được điều này, thì thống hối lại là một công việc đầy phấn khởi, và luôn luôn đưa đến niềm vui. Điều này có nghĩa là chúng ta biết lắng nghe và sống theo Tin Mừng.