Cha Vũ Khởi Phụng – Kỳ cuối: “Chiến sĩ dấn thân cho công lý, sự thật và hòa bình”

160306_3

Hình Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, cha Vũ Khởi Phụng và các cha DCCT Hà Nội cùng một số cộng tác viên tại Tòa Giám Mục Hà Nội năm 2008.

Thái Hà (09.03.2016) – Những gì ngài nói, những gì ngài viết, những gì ngài làm, những gì diễn ra ở DCCT Thái Hà, Hà Nội và DCCT Kỳ Đồng, Sài Gòn trong những năm qua, là những bằng chứng nói cho chúng ta biết ngài đã dấn thân thế nào trong lãnh vực công lý, sự thật và hòa bình.

Một chiến sĩ tích cực dấn thân mưu tìm công lý, sự thật và hòa bình

Lúc này tôi chỉ muốn nói thêm rằng: theo tôi được biết, thì ngài là một trong những người sớm gửi thư kiến nghị Hội đồng Giám mục Việt Nam mạnh dạn thành lập Ủy Ban Công lý và Hòa bình.

Ngài là một trong những anh em tích cực nhất và có vai trò quan trọng nhất của DCCT Việt Nam trong việc dấn thân cho công lý, sự thật và hòa bình.

Ngài đã sẵn lòng đảm nhiệm vai trò Bề trên-Chính xứ Thái Hà ở vào một trong những thời điểm mà ngài biết là đang gặp khó khăn, thử thách, nguy hiếm nhất trong lịch sử gần 90 năm hiện diện của tu viện này.

Ngài đã không thỏa hiệp trước những đề nghị của nhà cầm quyền để mưu tìm lợi ích riêng cho DCCT của mình. Trái lại, ngài hiệp nhất chặt chẽ với Tổng giáo phận Hà Nội, chấp nhận đồng sinh đồng tử với giáo dân, giáo sĩ và giáo quyền. Chấp nhận bằng hành động cụ thể chứ không phải bằng lời nói.

Yêu cầu của ngài về công lý, sự thật và hòa bình rất cao. Trong tư tưởng cũng như trên thực tế hành độn. Liên quan đến điều này, tôi thấy rằng trong tổng thể cũng như trong từng phương diện, thường thì ý của ngài là 10 phần, thì chúng tôi cố gắng hết sức cũng chỉ thực hiện được khoảng 5 hay 6 phần.

Ngài chủ trương dấn thân mưu tìm CÔNG LÝ, SỰ THẬT VÀ HÒA BÌNH, là bởi vì ngài xác tín rằng cái gốc rễ của của những đổ vỡ và rối loạn về mọi phương diện hiện nay trong xã hội Việt Nam đều phát xuất từ BẤT CÔNG-DỐI TRÁ VÀ BẠO LỰC do chế độ đã và đang thi hành.

Đêm chúa nhật 20 rạng ngày 21 tháng 9 năm 2008, khi nhà cầm quyền huy động những thành phần bất hảo đến bao vây tu viện Thái Hà, phá phách Đền thánh Giêrađô và hô hoán đòi giết ngài, ngài vẫn không nao núng, sợ hãi. Thậm chí hôm sau, trong thánh lễ Mátthêu, lễ bổn mạng ngài, tại nhà thờ, ngài còn có thể ca hát và có những lời hài hước khiến cộng đoàn cười nghiêng ngả, đủ biết niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng của ngài lớn lao thế nào.

Còn những điều khác liên quan đến ngài trong lĩnh vực này, dần dần lịch sử sẽ làm sáng tỏ.

160306_2

Hình cha Vũ Khởi Phụng dẫn Đức cha Ngô Quang Kiệt và Nguyễn Văn Đệ đi thăm gia đình trong giáo xứ Thái Hà có người bị bắt trong khi tham gia làm chứng cho công lý và sự thật năm 2008.

Một nhà thừa sai trong lãnh vực văn hóa và nghệ thuật

Ngài cũng thừa hưởng ít nhiều năng khiếu nghệ thuật của ông bà cố. Những năm tôi ở Sài Gòn, nhất là thời điểm 1989-1992, khi ngài chưa bị tại nạn gãy chân, hầu như tuần nào ngài cũng rủ tôi đạp xe[1] cùng ngài, lang thang đến các phòng triển lãm tranh ở đường Pasteur và đường Đồng Khởi, hoặc các bảo tàng, các nhà văn hóa, các danh lam thắng cảnh ở nội ngoại thành để thưởng thức những giá trị văn hóa nghệ thuật. Đôi khi có phim hay trình chiếu ở đâu đó thì ngài cũng kêu tôi đi xem cùng, tôi thấy thường là ở Trung tâm Văn hóa Pháp, vì có những phim nơi khác cấm ở đấy vẫn có thể chiếu. Nếu ngài bận việc, thì ngài nói tôi đi xem rồi về thuật lại.

Nhưng nơi mà ngài thường lui tới nhất là các nhà sách và các điểm bán sách báo ngoại ngữ của du khách Tây phương mang theo đọc xong rồi bỏ lại, hay bán lại[2]. Ngài đi xem sách cốt yếu để biết. Dù vậy thấy sách nào cần thiết, sách nào có giá trị và giá cả trong mức độ chấp nhận được thì ngài cũng mua. Tôi biết ngài sưu tập được một ít tạp chí Đô thành Hiếu cổ (Bulletin des Amis du Vieux Hue) và Nam Phong Tạp chí. Cả hai thứ quý này hy vọng là vẫn còn lại trong phòng ngài ở Sài Gòn.

Ngài cũng rất quan tâm đến văn chương kim cổ của thế giới và của Việt Nam. Ngài thường tìm đọc những tác phẩm văn chương đoạt giải Nobel hoặc đoạt giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam. Thời sự văn chương Việt Nam hay dở thế nào thì ngài nắm bắt khá kịp thời. Ngài coi văn chương không những là phương tiện giải trí, mà còn là một cách thức để ngài tiếp cận thực tại xã hội, gợi ý cho ngài trong việc rao giảng và hơn nữa còn là một phương tiện hiệu quả để truyền bá Tin mừng.

Ngài rất quan tâm đến mảng văn thơ công giáo Việt Nam. Ngài cổ vũ những ai có khả năng tham gia sáng tác văn học công giáo. Những năm ở Hà Nội tôi thấy ngài cũng rất quý trọng nhà văn Nguyễn Hoàng Đức[3]. Có lần chiều mùng một tết, trong lúc mọi người về quê với gia đình, tu viện cũng vắng vẻ hơn ngài thường, cha Vũ Khởi Phụng bảo tôi kêu anh Nguyễn Hoàng Đức đến Nhà Dòng cùng ngài và tôi đi ăn chiều và bàn chuyện văn thơ, triết học.

Năm rồi, sau một cuộc tĩnh tâm Cursillo, tôi có dịp hàn huyên với cha Nguyễn Tầm Thường, một văn sĩ công giáo được yêu thích, tôi hỏi con đường nào dẫn ngài đến nghiệp văn chương, thì ngài cho biết: trước 1975, lúc ngài đang làm chủng sinh ở Long Xuyên, thì ngài bắt đầu tập làm thơ, viết văn rồi gửi cho báo Tuổi Hoa và báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Khi nhận được, cha Vũ Khởi Phụng đã viết thư cho ngài, đánh giá rất tốt các bài viết của ngài và đã khuyên ngài tiếp tục sáng tác. Từ đó ngài tự tin vào ơn gọi văn chương và ngài theo nó đến bây giờ.

Ngài cách đích thân tổ chức các buổi giới thiệu các tác giả và tác phẩm công giáo. Có khi ít thì 5, 3 người. có khi nhiều cũng được 20, 30 người. Tôi nhớ hai lần cuối ngài tổ chức mà tôi có tham dự, thì một lần giới thiệu về tác giả và tác phẩm của nhà thơ Đình Bảng, lần còn lại giới thiệu về nhà thơ nào đó mà nay tôi quên đã quên tên; tôi chỉ còn nhớ là anh còn đang sống, đang bị bệnh phong như Hàn Mặc Tử và là người đã viết tiếp vở kịch thơ Quần Tiên Hội của Hà Mặc Tử.

Cha Mátthêu quan niệm rằng đức tin của người Công giáo Việt Nam chưa diễn tả được thành thơ thì đức tin chưa thực sự bén rễ sâu xa để sinh hoa kết quả tốt đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam này.

Theo tinh thần đó, bản thân ngài thỉnh thoảng cũng làm thơ, nhân dịp có sự kiện vui buồn gì đó. Chẳng hạn năm 1992, khi đang đạp xe lên Dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp giảng tĩnh tâm, đến chỗ sân gôn Gia Định, chỗ gần ngã ba Chú Ía, thì ngài bị cái xe benz đụng gẫy chân. Cha già Jean Thính, người rất mến mộ ngài, đã gửi tặng ngài mấy câu thơ con cóc rằng:

“Vũ Khởi Tiên Sinh bị gãy giò

Thế mà phải nói số còn to.

Vụ xe cán nghiến ghê rung rợn.

Hậu quả thông thường: ngủ hũ tro”

Cóc Đại Cồ Việt

Và ngài đã họa lại rằng:

“Mở mắt thì ra chỉ gãy giò.

Tưởng về với Chúa kiếm lời to.

Thiên đình khó tính chưa cho nhập.

Thôi thế xin từ biệt hũ tro.”

Mười mấy năm nay dường như không thấy ngài làm thơ nữa. Tôi hỏi tại sao, ngài bảo từ hồi cụ Jean Thính mất, ngài cũng không còn hứng làm thơ nữa.

Nhưng ca hát và sáng tác thánh ca thì ngài vẫn tiếp tục. Ngài thừa hưởng năng khiếu âm nhạc của bà cố; hơn nữa trong Nhà Dòng, ngài được các cha Canada đào tạo âm nhạc rất bài bản về âm nhạc như các anh em cùng thế hệ như Thành Tâm, Sĩ Tín, Hoàng Đức, Tiến Lộc.

Năm 1994, khi Đức cha Hoàng Văn Tiệm gặp tôi ở Nhà thờ Fatima Bình Triệu, ngài nói: “Ông còn trẻ mới vào tu nên không biết. DCCT các ông trước ở Đà Lạt quậy lắm. Các thầy mặc âu phục hát nhạc vào đời nên bị “đào” vời ra sạch cả! Tai tiếng lắm!”.

May mà tôi biết chuyện nên có thể giải thích cho Đức Cha. Vì trước đó có lần cha Phụng đã kể cho tôi biết rằng thực ra thời đấy thế hệ ngài cũng có nhiều anh em bỏ tu. Nhưng anh em về vì những chuyện khác chứ không phải vì hát nhạc vào đời. Thành viên của ban nhạc Alleluia hát nhạc vào đời vẫn còn nguyên cả đấy: Vũ Khởi Phụng, Thành Tâm, Trần Sĩ Tín, Nguyễn Đức Mầu, Trần Ứng Tường, Tiến Lộc, Trần Văn Quang, Lê Vĩnh Thủy. etc. Những thành viên Ban Alleluia còn tu và còn sống cả và phần nhiều đều đàn hát và sáng tác được cả.

Cha Vũ Khởi Phụng có giọng tenore rất hay và rất sang. Mỗi khi ngài, cùng quý cha Tiến Lộc, Trần Sĩ Tín, Cao Đình Trị, Thành Tâm cùng đồng ca thì ai nghe cũng thấy cảm động. Một trong những lần trình diễn hay nhất mà tôi ghi nhớ trong ký ức là dịp các ngài hát với cha Labonté, thầy cũ của các ngài từ Canada sang Việt Nam năm 1994.

Ngài thích hát và thích khuyến khích người khác hát thánh ca. Vì vậy, trong những năm khó khăn sau 1975 ngài đã làm linh hướng cho Ca đoàn Trùng Dương, thường gọi là ca đoàn lang thang. Thỉnh thoảng ngài lại mời ca đoàn này trình diễn theo kiểu hát cho nhau nghe theo một chủ đề gì đó, hoặc trong cuộc hội ngộ nào đó; có khi chỉ để cùng nhau suy niệm và cầu nguyện bằng thánh ca nhân Mùa Vọng hoặc Mùa Chay.

Ngài cũng có khả năng sáng tác âm nhạc. Nếu ngài theo chí hướng âm nhạc thì ngài cũng có thể thành ca sĩ, nhạc sĩ như một số người khác. Nhưng không! Ngài biết đâu là sứ vụ chính của ngài. Ngài không sống chết với âm nhạc. Đam mê của ngài không phải là âm nhạc. Đam mê của ngài là người nghèo và phục vụ người nghèo. Ngài chủ yếu coi âm nhạc như là một phương thế rao giảng Tin mừng.

Vì nhu cầu rao giảng, trong từng hoàn cảnh ngài đã cùng anh em trong Dòng ngẫu hứng sáng tác nhiều bài hát. Những bài hát ngài sáng tác, thường lấy ý tưởng từ Kinh thánh và từ hiện thực cuộc sống, có lời ca rất súc tích, duyên dáng, lại thấm đẫm chất thơ, thấm đậm tình tự của ngài đối với Chúa, đối với người nghèo, đối với Giáo Hội và Quê Hương. Thí dụ bài Tin vui cho bạn nghèo, một trong những bài hát mà mỗi lần hát hay nghe người khác hát, tôi cảm động phát khóc lên được:

TK.1:Ngài sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó; ngài sai tôi loan Tin mừng ơn cứu độ chứa chan nơi người. TK.2:Ngày đi xuân tươi hoa cỏ, với bao nỗi niềm thân thương, đường xa nên duyên nên nợ, bao nhiều người vấn vương vui buồn. TK 3: Nhiều phen ngang qua gian khổ, xin mang theo làm hành trang, trời khuya muôn sao đua nở, dõi bóng người đớn đau băng ngàn. TK 4: Gặp anh em tôi bé nhỏ. Xót thương phận bèo lênh đênh. Rồi nghe miên man tâm sự, những mối tình nước non quê mình. ĐK: Bạn nghèo, bạn nghèo, hãy sống ước ao. Bạn nghèo, bạn nghèo hãy sống khát khao Nước Trời. Bạn nghèo, bạn nghèo, có Đức Kitô. Bạn nghèo, bạn nghèo được phúc đầy no ơn trời.

Lời bài hát đấy tiêu biểu cho phong cách sốngcủa ngài, tiêu biểu cho phong cách mục vụ của ngài, và có thể nói rằng tiêu biểu cho chính cuộc đời của ngài.

Và đây bài hát này, có lẽ ít nhiều là tâm tình của ngài hôm nay, khi ngài vừa nằm xuống:

Trên đường về nhà Cha, từng lớp người đi tới. Có muôn dân thế giới, cùng hát một bài ca. Trên đường về nhà Cha, người đông đoài nam bắc. Mang hoa thơm cỏ lạ của rừng sâu đảo xa. 1. Cánh tay Cha chờ đợi luôn đón mời. Lòng bao dung mở ra trời đất mới. Là biển khơi gội sạch mọi tội lỗi. Như nhắn lời mau về đây với tình Cha. 2. Lữ khách bao ngày dài đã khát khô. Nặng âu lo vì thất bại đây đó. Đường mưa gió gập ghềnh nhiều gian khó. Nay đã về vui mừng gặp gỡ lại Cha.

Tôi kể đã dài, mà chưa hết chuyện ngài.

Tuy nhiên, một cách vắn tắt có thể nói thế này về ngài: Cha Mátthêu Vũ Khởi Phụng là người thông minh và hiểu biết; là linh mục hiền lành, thánh thiện, có chiều sâu tâm linh và có khả năng hướng dẫn người khác; là người không ham mê quyền lực, không đam mê tiền bạc và luôn sẵn lòng tuân theo sự hướng dẫn của các bề trên. Không bao giờ có ai có thể chê trách ngài điều gì liên quan đến những phương diện căn bản của đời tu là đời sống độc thân, khó nghèo và tuân phục.

Đối với tha nhân, ngài có lòng bác ái lớn lao, luôn tôn trọng mọi người, lắng nghe và tỏ lòng cảm thông với mọi người và tận tình giúp đỡ mọi người về vật chất và tinh thần trong khả năng của mình. Vì vậy, ngài được mọi người chung quanh yêu mến và kính trọng.

Ngài sống hiền hòa, nhưng vì con người và vì hạnh phúc của con người, ngài luôn thao thức đến các vấn đề của Giáo Hội, của Dân Tộc và của Đất Nước, bởi vây không bao giờ khoan nhượng với những bất công, dối trá và bạo lực của các cá nhân hay của chế độ. Vì thế, cùng những người khác ngài sẵng sàng xả thân mưu tìm CÔNG LÝ, SỰ THẬT VÀ HÒA BÌNH, nhằm mang lại hạnh phúc cho người dân, sự thịnh vượng cho Giáo Hội và cho Đất Nước.

Có thể nói rằng đối với Nhà Dòng, với Giáo Hội, với Dân Tộc và Đất Nước, ngài cũng đã yêu mến hết tình và phục vụ hết mình. Phục vụ bằng lời cầu nguyện, bằng tấm lòng cảm thông và chia sẻ, bằng khả năng giảng dạy của mình, bằng năng khiếu viết văn, làm thơ và sáng tác thánh ca, bằng việc tham gia tổ chức các dự án văn hóa, giáo dục, bác ái. Ngài là một tu sĩ chân chính Dòng Chúa Cứu Thế, một linh mục thánh thiên của Giáo Hội, một mục tử đích thực như lòng Chúa mong muốn, một công dân sống có trách nhiệm nhất đối với Dân Tộc và đất nước Việt Nam đầy đau thương và bất hạnh./.

Tu viện Thánh Gioacchino Roma, ngày 3 tháng 4 năm 2016

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT

[1] Đạp xe lóc cóc từ nhà sang Phú Lâm, hay sang Thủ Đức hay xa hơn đối với cha Vũ Khởi Phụng là chuyện thường. Chưa bao giờ thấy ngài có xe máy và đi xe máy.

[2] Ở Sài Gòn, tôi không thấy ai mê sách hơn cha Phụng và không ai mê đồ cổ hơn cha Nguyễn Hữu Triết. Chỉ có một khác biệt này nơi hai vị đáng kính: Cha Phụng thấy sách, mê sách nhưng không biết làm sao để sách đẻ ra sách; trong khi cha Triết thấy đồ cổ, mê đồ cổ và biết cách làm sao để đồ cổ đẻ ra đồ cổ. Tuy nhiên, cả hai lối ứng xử ấy của hai vị đều đáng phục và đều rất tốt đẹp. Cả hai đều sống giản dị, nghèo khó và đều cố công tìm cách bảo tồn và phát triển những di sản văn hóa và đức tin.

[3] Nguyễn Hoàng Đức, nguyên là công an cộng sản, được ĐHY Nguyễn văn Thuận cảm hóa, anh đã bỏ nghề công an, chấp nhận sống nghèo và sống trong cô đơn, cô độc để theo Chúa, nghiên cứu Kinh Thánh, thần học và sáng tác thơ văn công giáo. Anh đã được cha Nguyễn Xuân Thủy ở nhà thờ lớn rửa tội. Dịp kết thúc cấp giáo phận án phong chân phúc ĐHY Thuận, anh được mời sang Roma tham dự và làm chứng nhân, nhưng giờ cuối anh bị nhà cầm quyền cộng sản cấm xuất cảnh.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.