Thái Hà (22.01.2016) – Theo cơ quan Tín Vụ Á Châu thì ơn gọi linh mục và tu sĩ ở Trung Cộng đang tăng tiến, bất chấp việc tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản vô thần và tình hình mất tự do tôn giáo. Một cuộc nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Các Khoa Xã Hội Học ở Bắc Kinh cho thấy trên 60% sinh viên ở Bắc Kinh và Thượng Hải tỏ ra thiên về Kitô giáo. Ở vào một thời điểm Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa đang trải qua cơn khủng hoảng về căn tính của nó thì chỉ còn một ít người tin tưởng vào những lý tưởng của Mao Trạch Đông mà thôi, chứ nhiều người thuộc đảng này đang âm thầm tỏ ra chú trọng tới tôn giáo và đức tin Kitô giáo.
Sau đây là một câu truyện có thật về một đảng viên cộng sản năng nổ, một sinh viên thuộc miền bắc xứ sở này, đã trở thành một vị linh mục Công giáo (vì mục đích an ninh nên các địa danh và tên tuổi xin được giữ kín).
Tên tôi là Bao Yuanjin và là một linh mục ở miền bắc Trung Hoa. Tôi làm linh mục mấy năm trước đây. Tôi được rửa tội 11 năm trước. Trước đó, tôi là một người vô thần, và thực sự là một tay năng nổ của Đảng Cộng Sản Trung Hoa. Ở đại học, tôi đã lãnh đạo các thành viên Cộng Sản trẻ thuộc phân khoa của tôi. Lòng tôi có nhiều dự án và tư tưởng cho tương lai, thế nhưng không có một sự nào trong những thứ ấy liên quan tới Thiên Chúa hết, bởi vì, đối với tôi, Ngài thậm chí không hiện hữu. Gia đình tôi chỉ có bà của tôi theo Tin Lành. Khi tôi còn là một đứa nhỏ, tôi đã có lần nghe bà nói về Giêsu: Bà nói rằng Giêsu là con Thiên Chúa. Thế nhưng tôi chẳng có chú ý gì tới tôn giáo. Vấn đề giáo dục theo vô thần là những gì bắt buộc ở Trung Hoa, từ tiểu học lên đến đại học. Tâm trí của tôi đầy những lý thuyết về vô thần và tôi nghĩ rằng vấn đề tin tưởng vào Thiên Chúa là một cái gì đó trẻ con, thậm chí là một cái gì đó hơi ngu ngốc nữa.
Vào năm thứ tư đại học, tôi đã gia nhập đảng Cộng Sản. Dân chúng ở Trung Hoa ghi danh nhập đảng này theo niềm xác tín chẳng có bao nhiêu, hầu hết để “làm bạn” hầu một ngày kia có thể giúp họ tìm việc làm hay giúp họ khi họ gặp rắc rối.
Đời sống của tôi trong tổ Cộng Sản chẳng tốt cũng không xấu. Nhóm sinh viên chúng tôi tỏ ra tử tế với mọi người, chăm chỉ chuyên cần và khéo léo tổ chức tất cả mọi sinh hoạt.
Thế nhưng, tôi đã bị dội lại bởi sự kiện là, ở Đảng Cộng Sản này, tất cả những vấn đề ấy, cho dù là tốt đẹp đi nữa, vẫn thực hiện không phải cho người khác mà là cho chính mình mà thôi, cho việc thăng tiến nghề nghiệp của mình mà thôi. Rồi vấn đề dối trá nữa: đặc tính chính yếu của chúng tôi là dối trá, ở chỗ, hết mọi người đều nói dối và hết mọi người đều biết đến những thứ dối trá ấy, song tất cả chúng tôi vẫn cứ dối trá như nhau. Chẳng hạn, ở hết mọi cuộc họp tổ đều có giây phút để thú nhận và tự kiểm (được gọi chính xác là “phê bình kẻ khác và phê bình bản thân”). Thực ra chẳng có vấn đề tự kiểm gì cả và cũng chẳng có ai thực sự là phê bình kẻ khác nữa.
Có một loại trao đổi chính thức đã được ấn định, một thứ trao đổi thậm chí có thể trở thành hình thức tâng bốc xua nịnh. Chẳng hạn, người ta có thể nói với người trưởng tổ rằng: ‘Thưa tổ trưởng, tôi cần phải phê bình một điều tổ trưởng không làm đúng. Tổ trưởng đã làm quá nhiều cho chúng tôi. Đúng thế, làm việc là điều quan trọng, nhưng sức khỏe của tổ trưởng cũng quan trọng nữa. Tổ trưởng cần phải để ý đến sức khỏe để còn làm việc hơn nữa cho cộng đồng”.
Vào những lúc như thế, từ lòng tôi vang lên tiếng nói: “Thật là điêu ngoa, đúng là dối trá!”. Thế nhưng, tôi cũng phải làm như vậy thôi.
Sau đó ít lâu tôi bị bệnh. Tôi thường có những cơn ác mộng làm tôi thức giấc. Vào một đêm kia, tôi đã mơ thấy rằng tôi tìm thấy được một cái hộp; tôi đã mở ra và thấy một cuốn sách trong đó. Đó là một cuốn Thánh Kinh, sáng rực. Tôi tỉnh dậy và nhớ lại rằng bà của tôi là người duy nhất đã nói với tôi về Thánh Kinh. Tôi nhớ lời bà nói rằng Giêsu là đấng toàn năng. Bởi thế tôi nghĩ rằng nếu Giêsu là đấng toàn năng thì ngài có thể chữa tôi lành.
Và vì vậy tôi đã tìm đến một nhà thờ trong vùng và thấy một ngôi nhà thờ Tin Lành. Tuy nhiên, một đảng viên cộng sản bị cấm không được tin tưởng vào bất cứ một tôn giáo nào. Nên tôi đã kín đáo đi gặp những người Tin Lành. Vừa ra trường, nhờ Đảng đỡ đầu, tôi mau chóng tìm được một việc làm ngon lành ở một thành phố lớn. Trước khi nhận nhiệm vụ, hãng đó đã cho tôi lấy 1 tháng về thăm gia đình của tôi thuộc một miền khác. Vào cuối tháng nghỉ hè này, có một người bạn – sau này tôi mới khám phá ra là Công giáo – đã trao cho tôi 10 cuốn băng nhựa ghi những bài giảng của một vị linh mục Trung Hoa.
Sau khi nghe những cuộc băng nhựa ấy, một trận chiến đã bắt đầu giằng co trong tâm khảm của tôi: tôi nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa thực sự hiện hữu; có lẽ Công giáo thực sự là một đạo đích thật…Thế nhưng, đồng thời tôi nhớ đến tất cả mọi lý thuyết về vô thần đã được học hỏi ở học đường và đại học. Tôi bị khống chế bởi một cơn buồn thảm đồng thời sợ rằng nếu tôi chấp nhận đức tin Công giáo tôi sẽ liều mình mất việc làm của tôi. Tôi không biết phải làm sao. Đó là ngày tôi phải trở về thành phố để thi hành công việc của mình. Tôi đã mua vé xe buýt rồi.
Lần đầu tiên trong đời tôi hướng về Đức Bà và nói cùng người rằng: “Hỡi Thánh Maria, nếu bà thực sự hiện hữu, nếu đức tin Công giáo là những gì chân thực, nếu bà muốn tôi trở thành người Công giáo, thì xin ban cho tôi một dấu hiệu, đó là, ngày mai, trong chuyến đi của tôi, hãy để cho một cái gì đó quan trọng xẩy ra, một tai nạn chẳng hạn, mà tôi còn sống sót, thì tôi sẽ tin”. Giờ đây, tôi nghĩ rằng tôi đã rất ư là điên khùng khi thách đố Thiên Chúa, đã thử ngài kiểu đó. Thế nhưng, vào lúc bấy giờ thì đó là lời cầu nguyện duy nhất nẩy lên trong tâm trí tôi mà thôi.
Ngày hôm sau, một tai nạn thực sự đã xẩy ra, ở chỗ, bánh xe ở đằng trước phía bên phải của chiếc xe buýt nổ tung khi chúng tôi đang đi xuống dốc với tốc độ nhanh. Chiếc xe buýt đâm vào lề và lật ngược bốn bánh lên trời. Tất cả chúng tôi đều sống sót, thế nhưng chúng tôi đã phải gắng gõi hết sức để chui ra khỏi chiếc xe bẹp dúm qua những cửa sổ của nó. Tôi kinh hoàng trước tai nạn này, nhưng tôi không chú ý lắm tới dấu hiệu đó. Sau vài tiếng đồng hồ chờ đợi, hãng xe buýt cho một chiếc xe khác tới và chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên, tai nạn ấy đã làm cho chúng tôi mất thời gian tính. Khi chúng tôi tới được trạm xe buýt – chuyến đi của tôi vẫn phải tiếp tục bằng xe lửa – thì đã quá trễ và vé xe lửa đã bán hết sạch.
Người ta sắp hàng dài trước quay bán vé, và mọi người nói với chúng tôi rằng chỉ còn có những vé cho chuyến xe lửa trong vòng 3 ngày nữa thôi.
Tôi cảm thấy mất tinh thần và chán nản, vì tôi quá trễ việc làm đầu tiên của mình và vào ngày đầu tiên làm việc của mình. Tôi nghĩ đến việc cầu nguyện cùng Đức Bà một lần nữa rằng: “Xin giúp tôi mua được vé xe lửa. Nếu bà giúp tôi lần này nữa, tôi thề sẽ theo bà!” Trong khi chờ đợi ở một hàng dài, tôi đã mất hết hy vọng. Đùng một cái, một người đàn ông xuất hiện hô to lên rằng: “Đây là vé cho thành phố … Vé cho ngày hôm nay. Ai muốn mua tấm vé này?” Đó là điểm đến của tôi. Tôi liên mua ngay lập tức. Người này nói rằng ông ta vừa lấy được vé ấy cho một người bạn vừa gọi cho ông ta nói rằng họ không thể đến đúng giờ. Người bạn ấy xin ông ta hãy trả vé lại, thế nhưng, vì chuyến xe lửa sẽ rời trong vòng 40 phút nên quá trễ để được hoàn tiền lại do đó mà ông ta đã hỏi quanh quanh xem để cố gắng bán tấm vé đó cho người nào đó. Đó là một dấu hiệu nhỏ, nhưng là dấu hiệu ban đầu – bước đầu tiên cho cuộc trở lại của tôi.
Sau khi nhận việc, tôi đã tìm đến một Nhà Thờ Công Giáo để dự Lễ, song bao giờ cũng âm thầm kín đáo. Dần dần, tôi hiểu thêm về đức tin Công giáo, để rồi cuối cùng tôi đã xin rửa tội. Khi tìm được đức tin Công Giáo, tôi đã tìm thấy một cộng đoàn dân chúng đơn thành và tốt lành, nơi không có gì là gian dối. Tôi đã tìm được một số bạn bè thực sự. Tôi đã được giải thoát, ở chỗ, tôi không còn cần phải dối trá nữa. Dân chúng thực sự kiểm điểm họ và thậm chí nhận định về vị linh mục nữa. Tôi bắt đầu thấy được ánh sáng và hiểu rằng tôi đã thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Tuy nhiên, để rửa tội, tôi cần phải thắng vượt một trở ngại lớn, đó là việc tôi làm thành viên của Đảng Cộng Sản.
Một đảng viên Cộng Sản là một người vô thần; một Kitô hữu là người tin vào Thiên Chúa: không thể nào vừa là người Công giáo vừa là đảng viên Cộng Sản. Ngay cả vị linh mục dạy đạo cho tôi cũng nói rằng tôi cần phải rời bỏ Đảng Cộng Sản. Thế nhưng, tôi không đủ can đảm để làm điều này, bởi vì, tôi sợ rằng việc rời bỏ Đảng tôi sẽ phải chấp nhận những hậu quả khủng khiếp, ở chỗ có thể bị mất việc làm hay thậm chí có thể bị bách hại nữa. Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa kiểm soát tất cả mọi sự, bởi thế, để dứt tình với nó có nghĩa là một cách nào đó làm mất đi tất cả mọi niềm hy vọng được sống một cuộc đời yên hàn; có nghĩa là cảm thấy như mình trở thành một kẻ xa lạ. Trong Đảng Cộng Sản Trung Hoa có một qui luật là mỗi đảng viên đóng góp một số tiền hằng tháng nào đó cho Đảng. Nếu một người không đóng góp trong vòng 6 tháng liền thì bị trừng phạt và đôi khi còn bị đuổi ra khỏi Đảng nữa. Vì tôi không đủ can đảm để công khai rời bỏ Đảng nên tôi đã nghĩ đến cách ra khỏi đảng bằng cách ấy, bởi thế tôi đã không đóng góp gì trong vòng 6 tháng.
Thế nhưng lại chẳng có gì xẩy ra cả, vì không hề cho tôi biết, người tổ trưởng, vì thấy tôi không đóng đã đóng cho tôi! Tôi không biết tại sao anh ta lại làm thế. Anh ta là một loại người bình thường, không tốt cũng chẳng xấu. Có lẽ anh ta nghĩ rằng tôi đã quên và ứng trước để tôi trả lại cho anh ta sau chăng; có lẽ anh ta không muốn các viên chức cấp trên của anh ta thấy rằng có những “kẻ chểnh mảng” ở tổ của anh ta, khiến anh ta bị phê bình khiển trách hay chăng. Cuối cùng, tôi chỉ còn một chọn lựa duy nhất đó là đi theo đường lối chính thức, và tôi đã viết một bức thư để xin bỏ Đảng. Tuy nhiên, tôi đã không đủ can đảm để nộp bức thư này. Tôi đã quyết định nhiều lần trình bức thư ấy, để rồi cuối cùng tôi đã không thực hiện nổi. Có lần tôi đã vận dụng tất cả lòng can đảm của mình để đi thẳng tới viên chức Đảng mà trao bức thư của mình cho người này. Ông ta không nói được một lời nào, vì đó là lần đầu tiên ông ta thấy có một người dám từ chối ở lại trong CCP (Đảng Cộng Sản Trung Hoa). Ông ta hoàn toàn không thể nào hiểu nổi.
Cuối cùng tôi đã được lãnh nhận phép rửa. Và với bí tích này, tôi đã bắt đầu hoan hưởng được niềm an bình sâu xa. Sau đó ít lâu, tôi đã gặp một người bạn cũ trong tổ của mình. Chúng tôi đã là bạn với nhau ngay cả trước khi gia nhập Đảng nữa. Anh ta nghe rằng tôi đã rời Đảng và trở thành một Kitô hữu. Anh ta bảo tôi rằng tôi rất can đảm và thêm rằng anh ta sẽ không bao giờ có thể can đảm như thế.
Sau khi trở thành một người Công Giáo, tôi đã tiếp tục tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật, thế nhưng với một cộng đồng hầm trú không được chính quyền nhìn nhận. Có lần một nữ tu nói với tôi rằng: Tại sao em không theo Chúa Giêsu trọn vẹn hơn để làm linh mục? Tôi đáp ngay là “không”. Không có ai tin tưởng ở trong gia đình tôi cả và việc trở thành linh mục là việc khó khăn. Là người con trai đầu lòng, theo truyền thống Trung Hoa, tôi buộc phải nâng đỡ cha mẹ tôi khi các vị về già. Việc tôi vào chủng viện, thì kẻ thù đầu tiên của tôi sẽ là cha mẹ tôi.
Sáu tháng sau, khi đang cầu nguyện trong phòng, tôi nghe thấy tiếng gọi: “Hãy theo Ta”. Bấy giờ không có ai trong phòng cả. Tận đáy lòng tôi hiểu rằng chính Chúa Giêsu đã gọi tôi, thế nhưng tôi quá ư là run sợ, bởi vì, việc trở thành linh mục – thuộc Giáo Hội hầm trú – nghĩa là từ bỏ tất cả mọi sự, từ bỏ gia đình, việc làm, lao mình vào nguy hiểm, ôm lấy Thập Giá, chịu khổ ải, bị tù đầy. Tôi đã đáp lại là không. Thế nhưng, vì việc từ chối này mà tôi không còn được bình an nữa, khi tôi trở thành một kẻ khắc khoải khôn nguôi và mất đi tất cả mọi niềm vui. Tôi không muốn theo Chúa Giêsu vì tôi có một công ăn việc làm tốt, một đời sống bình lặng.
Thế nhưng, tôi đã không thể nào chống cưỡng được tiếng Chúa gọi. Thế là tôi đã cầu xin cho được một việc làm khác ở một thành phố xa xôi. Có thế, tôi mới có thể bỏ việc làm của tôi một cách âm thầm kín đáo hơn, và mới có thể nhập chủng viện. Tôi đã làm việc ở thành phố ấy gần 2 năm trời, để kiếm được nhiều bao nhiêu có thể, dành dụm mọi sự để giành tiền cho cha mẹ tôi, rồi cuối cùng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. Tôi biết rằng tôi yếu đuối nên tôi đã nguyện cầu rằng: “Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa muốn, Chúa có thể làm con trung thành sống đời môn đệ của Chúa đến muôn đời. Điều này sẽ là một phép lạ rất cả thể”.
Tôi đã sống 5 năm ở chủng viện thuộc Giáo Hội hầm trú. Đời sống rất ư là khó khăn và nguy hiểm. Thức dậy vào lúc 5 giờ sáng. Sau buổi suy niệm nửa tiếng, chúng tôi cử hành Thánh Lễ và nguyện kinh thần vụ. Sau điểm tâm, chúng tôi thu dọn và bắt đầu học. Chúng tôi lên giường nghỉ vào lúc 10 giờ đêm. Đời sống ở chủng viện chui là một đời sống khá khó khăn, ở chỗ, chúng tôi sống ở một ngôi nhà miền quê của một tín hữu giành cho chúng tôi.Thế nhưng, khi chúng tôi nghe tin cảnh sát khám phá ra chúng tôi thì chúng tôi buộc phải thoát thân và định cư ở một nơi khác.
Trong năm năm, chúng tôi đã đổi chỗ tất cả là 3 lần. Chủng sinh chúng tôi chẳng những phải lo thu dọn mà còn phải nấu nướng, dọn bữa cho mọi người nữa. Về vấn đề vật chất, cuộc sống thật là khó khăn: lương thực thì ít, rau cũng ít, hiếm khi có thịt ăn; phòng ở chật chội, không có chỗ nào là dư thừa cả. Thế nhưng, lòng tôi lại cảm thấy bằng an, thậm chí hết sức vui vẻ, khác với những gì tôi cảm thấy trước đó. Chủng sinh với nhau rất thân thiện và sống tình huynh đệ với nhau. Một khi mọi người lúc nào cũng tỏ ra yêu thương nhau thì việc thắng vượt khó khăn thật là dễ dàng.
Sau 5 năm học hỏi, ngày chịu chức linh mục đã tới. Bấy giờ tình hình căng thẳng xẩy ra trong giáo phận của tôi, và chúng tôi liều mình bị cảnh sát tống giam. Bởi thế chúng tôi đã cử hành lễ truyền chức vào lúc 4 giờ sáng. Lúc ấy mọi người ở Trung Hoa đang ngủ, kể cả cảnh sát nữa. Cho dù đời sống là người Công Giáo có khó khăn, đức tin của chúng tôi thực sự kiên cường. Điều này cũng là nhờ gương sáng của các vị linh mục trong ngục tù. Một thí dụ nhỏ, đó là, ở tỉnh của tôi, vào năm 1983, khi Trung Hoa bắt đầu thực hiện những cải cách cả thể về kinh tế, chỉ có 3 gia đình Công giáo. Giờ đây, sau gần 20 năm, con số đã lên tới trên 4 ngàn. Thật sự là máu tử đạo trở nên hạt giống mọc lên các Kitô hữu mới. Đối với cả tôi nữa, sức mạnh của tôi chính là Chúa Giêsu. Người đã nói rằng “Không phải các con đã chọn Thày, song Thày đã chọn các con” (Jn 15:16). Dọc theo con đường này, tôi gặp Thập Giá, nhưng cũng gặp cả niềm vui và an bình nữa. Với ơn Người trợ giúp, tôi mãi mãi theo Người, thắng vượt bất cứ những gì là khó khăn xẩy ra cho tôi.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
dịch theo Zenit