Ánh đèn điện cao thế là ánh sáng bình thường mà khi nhìn vô con người đã thấy chói. Ánh mặt trời “cao cấp” hơn nhưng cũng chỉ là ánh sáng bình thường, độ chói càng mạnh hơn, con người không thể chịu nổi, thậm chí có thể nguy hiểm vì bức xạ điện từ.
Những loại ánh sáng bình thường đó chỉ là thụ tạo mà con người còn chưa chịu nổi huống chí ánh sáng của Đấng tạo ra chúng – Tạo Hóa, Thiên Chúa. Kinh Thánh cho biết cụ thể: Khi đang chăn chiên cho bố vợ, ông Môsê thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông thấy kỳ lạ và lại gần xem sao. Nhưng Đức Chúa nói không được lại gần, phải cởi dép ra, vì nơi đó là đất thánh. Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa. (Xh 3:1-6)
Phêrô, Giacôbê và Gioan là cho ba môn đệ thân tín được Chúa Giêsu cho chứng kiến cuộc biến hình của Ngài trên núi Tabor. Ngài cho họ “nếm thử” vinh quang Nước Trời để củng cố đức tin, và rồi một trong ba ông là Giacôbê trở thành người đầu tiên minh chứng đức tin bằng cái chết – lễ ngày 25 tháng 7.
Thời Cựu Ước đã có một số người được thị kiến, một trong số đó là ngôn sứ Đanien. Ông kể lại giấc mộng: “Tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an tọa. Áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng. Từ trước nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan. Toà bắt đầu xử, sổ sách được mở ra.” (Ðn 7:9-10) Đó là quang cảnh Ngày Phán Xét, khi Đức Kitô tái lâm để phân biệt chiên với dê, tách cỏ lùng khỏi lúa. Đó là Giờ Công Lý, vì Giờ Thương Xót đã hết – tức là lúc Thẩm phán Tòa Thượng Thẩm xét xử mọi người để thưởng công hoặc tuyên án phạt đời đời.
Ngôn sứ Đanien cho biết thêm: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” (Ðn 7:13-14) Những lời mô tả rất rõ ràng, cho thấy những hình ảnh chính xác và kỳ lạ. Nhưng đó là sự thật chứ không là chuyện vui đùa, cũng chẳng là huyền thoại hoặc cổ tích.
Và rồi có những trường hợp thị kiến về những điều khác nhau: Thánh Teresa Avila (1515-1582) được thị kiến Hỏa ngục, Thánh Margaret Mary Alacoque (1647-1690) được thị kiến Thánh Tâm Chúa Giêsu, Chân phước Anne Catherine Emmerich (1774-1824) được thị kiến Bữa Tiệc Ly, Thánh Faustina Kowalska (1905-1938) được thị kiến Hỏa ngục và các thị kiến khác, đồng thời có nhiệm vụ loan báo Sứ điệp Lòng Thương Xót của Thiên Chúa,…
Từ ngàn xưa, Thánh Vịnh gia vừa động viên vừa tiên báo: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người.” (Tv 97:1-2, 5-6)
Tại sao mọi loài mọi vật đều phải tâm phục khẩu phục? Đây là lý do đơn giản mà chính xác: “Chính bởi vì Ngài là Đấng Cao Cả trên khắp địa cầu, Ngài trổi vượt chư thần hết thảy.” (Tv 97:9) Thiên Chúa duy nhất, Đấng chúng ta phải tôn thờ, không được suy tôn bất cứ thần nào khác. (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Kn 12:13; Is 43:10-13; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20)
Được “thực mục sở thị” và kinh nghiệm sống với những tháng năm theo Thầy Giêsu rong ruổi khắp hang cùng ngõ ngách, Thánh Phêrô làm chứng: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người.” (2 Pr 1:16) Tất cả là sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, ai không tin là cố chấp. Giáo hoàng tiên khởi cho xác định: “Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến’.” (2 Pr 1:17-18) Thật vậy, nhóm kinh sư và Sađốc cũng phải công nhận chân lý bất biến: “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12:32-33)
Và rồi Thánh Phêrô kết luận: “Như vậy, chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em.” (2 Pr 1:19) Bảy mươi còn phải học bảy mốt, chúng ta chỉ là hậu duệ, không thể dám dại đột mà làm ngơ những lời chứng đó. Mỗi tín nhân cũng có nhiệm vụ làm chứng về Thiên Chúa, về sự thật.
Tin và ảo tưởng rất dễ lầm lẫn, thế nên phải có được khả năng minh định rạch ròi. Quả thật, tin là điều không dễ thực hiện trong một sớm một chiều, thực sự khó lắm nên Chúa Giêsu động viên: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Có những thứ được tận mắt thấy tỏ tường mà đôi khi chúng ta vẫn không tin, hoặc cứ bán tín bán nghi. Thật là khó lắm! Đức tin vẫn cần có lý trí, nếu không sẽ dễ bị cuồng tín, mà cuồng tín là phi tôn giáo. Sách “Gương Chúa Giêsu” phân biệt: “Lý trí con người yếu đuối nên thường có thể làm sai, duy chỉ có đức tin chân chính mới hoàn toàn không sai lầm.” Đức tin quan trọng, nhưng phải là Đức Tin Chân Chính, không thể là bất cứ dạng nào khác.
Có sự thật này phải công nhận: Chúng ta không có diễm phúc được thị kiến như các thánh, nhưng chúng ta vẫn có nhiều cách thị kiến khác – như nhìn vào thiên nhiên hoặc các biến cố của cuộc đời. Rất nhiều thánh cũng chỉ “thị kiến” với đức tin giữa đời thường như vậy mà thôi. Vấn đề là chúng ta có thấy “chói” hay không – không “chói” vì sợ, mà “chói” vì tin kính và yêu mến.
Chỉ mới một tuần trước, Chúa Giêsu nói rằng Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16:21) Nghe Thầy nói vậy, các môn đệ chưng hửng, thất vọng và hụt hẫng. Bao năm gắn bó với Thầy, đồng lao cộng khổ với Sư Phụ, chấp nhận “nằm gai” với hy vọng được “nếm mật,” một lòng một dạ theo Thầy, bỏ ăn bỏ ngủ để lang thang khắp nơi với Thầy, chỉ mong đến lúc Thầy được vinh quang hiển hách thì mình cũng được hưởng chút công lao là chức tước và bổng lộc. Chính Giacôbê và Gioan đã hí hửng xin Thầy Giêsu: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mc 10:37) [Mt 20:20-23 nói rằng người mẹ xin dùm.] Thế bây giờ Thầy lại bảo sắp chịu chết. Kỳ ghê luôn! Lâu đài kỳ vọng chợt sụp đổ như bị động đất mạnh, mộng vàng tương lai chợt tan thành mây khói. Công dã tràng rồi. Trắng tay. Dấu chấm hết là một dấu chấm than!
Ý Chúa khác xa ý phàm nhân. Chúa Giêsu biết các đệ tử đang “ấm ức” và hầu như tuyệt vọng, thế nên Ngài dẫn ba “đệ tử ruột” lên núi, cho các ông tận mắt chứng kiến vinh quang rực rỡ của Ngài. Nhưng Ngài biết sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà các môn đệ cũng là những con người trần tục. Nếu không mặc khải cho các ông biết chính Ngài thực sự là Thiên Chúa thật, có thể các ông sẽ rút lui không lời từ biệt, bỏ của chạy lấy người. Lẽ thường tình là thế.
Thánh sử Mátthêu cho biết qua trình thuật Mt 17:1-9 thế này: Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Cảnh Thiên Đàng sao mà kỳ lạ và độc đáo, ngoài sức tưởng tượng, nhưng cũng rất thú vị. Hơn cả tuyệt vời!
Chỉ là phàm phu tục tử mà được thưởng ngoạn tiên cảnh thì còn gì sướng cho bằng, chẳng khác Lưu Nguyễn lạc vào Thiên Thai, thế nên lúc đó ông Phêrô thưa ngay với Đức Giêsu: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” Chỉ cần cho ba vị thôi, còn ba đệ tử đang sướng rơn, hồn lâng lâng, mê tít, quên mọi sự thế gian, chẳng cần chi cho mình nữa. Có Chúa là có tất cả.
Khi ông Phêrô đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. Nghe tiếng nói mà không như tiếng nói, thấy người mà không như người, lạ vô cùng, phàm ngôn không thể diễn tả được. Hoảng sợ và té cái “đùng” vậy mà vẫn thấy sung sướng vô tận. Chỉ một thoáng thôi mà sao sướng thật. Mặc dù họ cảm thấy “chói” đủ kiểu, nhưng hạnh phúc lắm!
Lúc đó Chúa Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17:7) Mọi sự trở lại đời thường như trước, nhưng dư vị hạnh phúc vẫn còn. Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Thầy Giêsu mà thôi. Giá mà được lâu lâu một chút thì hay biết mấy! Nhưng thôi, “nếm thử” vinh quang Thiên Chúa một chút vậy cũng đủ tăng lực đức tin rồi. Lại phải vào đời và làm những việc cần thiết thôi…
Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.” Chỉ trong chốc lát mà kỳ diệu thế đấy, chắc chắn phúc trường sinh thì không thể mô tả niềm hạnh phúc kỳ diệu như thế nào. Với kinh nghiệm riêng, Thánh Phêrô mô tả cho dễ hiểu: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày.” (2 Pr 3:8) Thật vậy, “từ sáng sớm tới chiều tà, thời gian thay đổi; trước mặt Đức Chúa, tất cả đều mau qua.” (Hc 18:26)
Cuộc đời mỗi chúng ta là một cuốn sách đặc biệt của Chúa, và mỗi ngày là một trang đời kỳ diệu: Hôm nay Ngài muốn viết gì?
Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin cảm tạ Ngài đã cho chúng con được làm người và nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Xin tăng lực Đức Tin và Đức Ái để chúng con vững tin vào Ngài và biết giúp nhau cùng tiến về Thiên Quốc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU