Khi đọc Kinh Thánh, mỗi người có một lối tiếp cận khác nhau.
Có người đọc Kinh Thánh dưới khía cạnh giao ước. Với họ, từng trang Kinh Thánh sẽ dần làm hé lộ những giao ước Thiên Chúa đã thiết lập với loài người. Khởi đầu từ giao ước với nguyên tổ A-dam và E-và, rồi đến giao ước với Nô-e, Abraham, với Mô-sê, với Đa-vít và theo dòng lịch sử, giao ước của Thiên Chúa đạt đến đỉnh điểm nơi Chúa Giê-su.
Có người lại nhìn Kinh Thánh dưới lăng kính của ơn gọi. Với họ, Kinh Thánh là cuốn sách kể lại câu chuyện của những người được Thiên Chúa tuyển chọn, kêu gọi để thi hành thánh ý của Ngài. Mỗi nhân vật trong Kinh Thánh đều có một ơn gọi riêng biệt, người thì là ngôn sứ, người thì là thầy dạy đức tin, người thì lãnh đạo Dân Chúa, có người âm thầm, có người công khai. Nhưng tất cả ơn gọi đều qui về một nhân vật trung tâm, Chúa Giê-su.
Phần riêng tôi, đọc đến bất kì phần nào của Kinh Thánh, tôi cũng thấy bóng dáng người di dân phủ đầy từng trang sách. Kinh Thánh có vô số câu chuyện kể về nhiều trường hợp di cư,hoặc tự nguyện, hoặc bị ép buộc nhiều lý do. Mời bạn cùng tôi cùng lướt qua một số nhân vật chính trong Kinh Thánh, vốn là những người di dân và tị nạn:
Được Thiên Chúa kêu gọi, Áp-ra-ham rời quê hương ở miền Ur để đến với Ca-na-an. Một nạn đói xảy ra khiến Áp-ra-ham phải bỏ nơi ở mới này để đến Ai Cập. Sau này, Áp-ra-ham mới có điều kiện quay lại miền đất hứa và sống một cuộc đời bán du mục. Trong nhiều năm, Gia-cóp cũng phải trải qua cảnh phải tháo chạy để tránh tai họa. Giu-se bị bán đi làm nô lệ ở xứ Ai Cập và cuối cùng, ông là là người cứu người dân Ai Cập và chính gia đình của mình. Mô-sê sống như một người tị nạn ở vùng đất của Midian trong nhiều thập kỷ trước khi trở về Ai Cập. Trong suốt quãng đời còn lại của mình, Mô-se đã dành trọn vẹn để phục vụ một đoàn dân di cư.
Và nhờ đó, sau nhiều thế kỷ sống trong cảnh nô lệ, lao động cưỡng bức ở Ai Cập, dân Ít-ra-en đã gói ghém hành lý và di cư trong bốn mươi năm, lang thang qua vùng sa mạc hoang dã trước khi họ trở về miền đất đã được hứa ban cho tổ tiên của họ. Hai vợ chồng Elimelech và Naomi và các con trai của họ đã phải rời khỏi vùng đất của Ít-ra-en và tìm nơi ẩn náu ở Mô-áp do nạn đói. Bà Ruth, được liệt kê trong số tổ tiên của vua Đa-vít và của Chúa Giê-su (Mat 1: 5), đã di cư với mẹ chồng là bà Naomi đến với đất Ít-ra-en và phải hội nhập vào một môi trường xa lạ.
Kế đó là lịch sử thăng trầm của dân Ít-ra-en với biết bao phen phân tán và lưu đầy, tản mạn khắp nơi. Có giai đoạn, cả dân tộc đã trải qua những bảy mươi năm sống nơi đất khách quê người và phải đối mặt với hoàn cảnh áp bức khắc nghiệt. Nhưng chính cuộc lưu đầy ở Babylon đã tạo nên vô số những đổi mới về khía cạnh tôn giáo. Chẳng hạn, họ đã tạo ra những Hội đường Do Thái, là nơi nuôi dưỡng đức tin cho dân Ít-ra-en qua nhiều thế kỷ đau thương khi mà Đền Thánh, Đất hứa đã không còn. Đức tin của Ít-ra-en đã hội nhập linh hoạt dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thời, tùy hoàn cảnh. Một số sách trong Cựu ước, chẳng hạn như sách ngôn sứ Ezekiel, có nguồn gốc trong thời lưu đày, đã phản ánh kinh nghiệm này, góp phần quan trọng về mặt thần học đối với cuộc lưu đày và việc trở lại đất hứa. Cuộc trở về dân Ít-ra-en vào cuối thời kỳ lưu đày đồng nghĩa với việc thêm một lần di cư và bắt tay xây dựng lại cuộc sống.
Tuy vậy, trong Cựu Ước, có một quan điểm cho rằng: phải bỏ quê hương mà ra đi là một điều gì đó giống như sự trừng phạt một điều không ai muốn nó xảy ra. Bởi vậy, việc di cư thường được trình bày dưới lăng kính không mấy sáng sủa. Câu chuyện về vườn địa đang Ê-đen và sự sa ngã của nhân loại khép lại bằng việc trục xuất A-đam và E-và ra khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa. Cain vì đã giết anh trai mình nên bị kết án là một kẻ chạy trốn và một kẻ lang thang trên khắp cùng cõi đất. Bằng việc khiến cho ngôn ngữ bất đồng ở tháp Babel, Thiên Chúa đã phân tán nhân loại về tám phương tứ hướng. Cựu Ước đề cao chuyện mỗi người Ít-ra-en được sống yên ổn trên mảnh đất của riêng mình: ” Mỗi người sẽ ngồi dưới cây vả cây nho của mình, không còn ai quấy phá.” (Sách Ngôn Sứ Mi-kha 4: 4).
Sống trong cảnh xa quê nào đâu phải dễ dàng gì. Cái nghèo, sự mất địa vị xã hội và những những bất lợi vẫn rình rập, đeo bám không ít người; tuy đôi khi những ngoại lệ, chẳng hạn như trường hợp của Đa-ni-ên ở Babylon hoặc Nê-hê-mi-a ở hoặc Ba Tư.
Đến thời Tân Ước, có thánh Gio-an Tẩy giả rời bỏ quê hương để và vùng hoang địa Giu-đê và sau đó là những bài giảng kêu gọi sám hối và việc thực hiện phép dìm trong nước bên bờ sông Gio-đan (Lu-ca 1:39, 80; 3: 3). Do một cuộc kiểm tra dân số La Mã do hoàng đế Augustus tổ chức vào lúc Chúa Giêsu ra đời, dẫn đến việc ngài không được sinh ra tại quê nhà Nazareth, nhưng là ở Bethlehem, trong một máng cỏ (Lu-ca 2: 1–7). Trong thời gian ngắn sau đó gia đình Thánh gia phải chạy sang Ai Cập và ở đó một thời gian như những người tị nạn (Mat 2: 13–15). Về sau, họ đến ngụ cư ở Ga-li-lê. Chúa Giê-su từ giã gia đình để bắt đầu hành trình loan báo Tin Mừng trước hết ở Ga-li-lê, khắp miền Giu-đê và cuối cùng là ở Giê-ru-sa-lem.
Vâng theo lời kêu gọi trở thành môn đệ, các tông đồ tự nguyện rời bỏ gia đình, nhà cửa và sự nghiệp của họ ở Ga-li-lê để theo Chúa Giê-su. Họ trở nên mẫu gương của “môn đệ là người di dân”, noi theo Thầy của họ, rảo khắp các vùng đất để loan báo Tin vui cho bạn nghèo, như người đã nói: “Con cáo có hang, và chim trời có tổ; nhưng Con Người không có chỗ nào để gối đầu ”(Lu-ca 9: 57–62). Đồng thời, các môn đệ cũng được hứa rằng họ sẽ nhận được gấp trăm lần những gì họ để lại và còn thêm sự sống đời đời (Mt 19:29).
Sách Công vụ Tông đồ có rất nhiều câu chuyện về di dân. Ngoài ra, các lá thư của Phao-lô cũng kể về những cuộc hành trình đây đó của Phao-lô và những người loan báo Tin Mừng. Thư thứ nhất của Phê-rô gọi các Ki-tô hữu là những người khách ở vùng đất lạ và là kẻ lữ hành (2:11) mặc dù họ vẫn tiếp tục sống ở nơi xuất xứ của họ. Mất đi địa vị trong xã hội và bị thế gian xa lánh, nhưng bù lại, các Ki-tô hữu được mời gọi tham dự vào chức tư tế của Đức Ki-tô mà ra đi loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm. Sách Khải Huyền, trình bày về thời cánh chung được viết trong khi chính tác giả của nó bị lưu đày trên đảo Patmos (Rev 1: 9).
Bạn thấy đó, Kinh Thánh là một cuốn sách có mật độ dầy đặc những mảnh ghép cuộc đời người di dân. Suy cho cùng, ai trong chúng ta lại không phải là người xa quê theo một nghĩa nào đó. Vâng, quê nhà đích thực của chúng ta là ở nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chỉ có khi nào trở lại quê hương, lòng ta mới hết nhớ nhung. Nói như thánh Augutine thì: Hồn con khắc khoải không nguôi, cho đến khi nghỉ yên bên Chúa.
Mời bạn cùng lần giở đọc lại Thánh Kinh, để cùng nhau, chúng ta khám phá ra những câu chuyện của phận người tha hương của chính chúng ta. Amen.
Duc Trung Vu, CSsR