Đức Giêsu đã bị giết chết, còn các môn đệ co cụm lại, sợ hãi trước một tương lai tăm tối. Nỗi đe dọa hình như ở khắp nơi. Họ không dám đi đâu, làm gì vì “sợ người Do thái.”
Trong sự bế tắc ấy, Đức Giêsu hiện ra với họ nói: “Bình an cho anh em.” Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của sự Bình an. Nhưng với sự hiện ra của vị Thầy, cho họ thấy những dấu tích của cuộc khổ nạn trên thân thể, đã làm bùng lên sự phấn chấn, vui mừng. Nỗi mừng vui trọng đại này được Giáo hội lưu lại trong kinh nguyện của mùa phục sinh, như muốn nhắn gửi cho con cái mọi thời về cái tâm bất biến giữa giòng đời vạn biến: “Các môn đệ vui mừng. Halleluia. Vì được nhìn thấy Chúa. Halleluia.”
Những thương tích trên thân thể Đức Giêsu vẫn còn đó, như dấu chỉ cho một tình yêu cao cả và lòng xót thương vô bờ Người dành cho nhân loại, mà các môn đệ có sứ mạng truyền rao: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
Các môn đệ sẽ thi hành sứ mạng này, không phải để trừng trị, trả thù những kẻ gian ác, nhưng là để tha thứ và làm chứng cho Tin mừng, cho ơn Cứu Chuộc, cho lòng Thương Xót vô biên Người vẫn dành cho con người, từ đời nọ đến đời kia.
Sứ mạng này, các môn đệ sẽ thực hiện cùng với Đấng Phục Sinh luôn hiện diện ở cùng, như một thẩm quyền để hậu thuẫn cho sứ điệp, một thế lực để duy trì sức mạnh thừa sai, để soi sáng cho tâm trí và làm bừng lên ngọn lửa nhiệt thành.
Sứ mạng ấy đã tồn tại qua thời gian lịch sử, trải qua những sự thử thách ghê gớm giữa sự sống và cái chết, giữa đức tin và khoa học, giữa mầu nhiệm và những vấn đề thuộc bình diện nhân loại. Đừng vội trách Tôma là kẻ cứng tin, như các tông đồ khác, Tôma cũng chỉ hướng tới thập giá, dù ông can đảm: “Chúng ta hãy tới đó để cùng chết với Ngài.” (Ga 11,16)
Rất yêu mến thầy, nên khi thấy thầy chịu chết, ông đau đớn rút vào trong cô tịch. Vì thế, khi Đấng Phục Sinh hiên ra, Tôma đã vắng mặt. Nhưng Tôma thật lòng, dám nói lên sự nghi ngờ vướng mắc của mình và tuyên bố sẽ chẳng tin nếu không được thấy tận mắt, sờ tận tay vào những vết thương của Chúa.
Tám ngày sau, các môn đệ tụ tập, lần này có Tôma. Các cửa đều đóng kín. Sự gặp gỡ với Đấng Phục Sinh lần trước vẫn chưa giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi. Họ cần có sức mạnh Chúa Thánh Thần, thì mới dạn dĩ xuất hiện trong tư thế là chứng tá cho Đức Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh.
Đức Giêsu biết rõ tâm hồn và những yêu sách của Tôma, nên lần hiện ra này, Người sẵn sàng để cho ông kiểm chứng và “đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin”. Tôma sụp xuống trong sự kinh hoàng, thốt lên lời tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con”.
Không ít lần, trong những thời khắc khủng hoảng tăm tối nhất, vẫn có những ao ước được “thấy và chạm” đến những thương tích trên thân thể Đấng Phục Sinh như tông đồ Tôma. Nhưng những vết thương của Giáo Hội, của xã hội, của dân tộc, của gia đình và của mỗi người chính là những vết thương của Chúa Kitô, và những vết thương ấy phải được nhìn thấy để chạm vào.
Làm sao có thể chạm vào những vết thương của Chúa, khi chúng ta nhắm mắt lại trước mọi vết thương rách toác trên quê hương bởi sự hèn nhát của nhà cầm quyền cộng sản trước sự lệ thuộc về chính trị và kinh tế vào Trung Quốc; trước dã tâm thôn tính của họ qua từng đặc khu, từng hòn đảo, từng khu công nghiệp?
Làm sao có thể hôn kính những vết thương trên Thân Thể Chúa Kitô, đang khi bỏ mặc những vết thương trên thân thể, trong tâm hồn, trong đời sống của một dân tộc từng có lịch sử phát triển hào hùng, tiến bộ về mọi mặt, nay trở nên kém phát triển, băng hoại văn hóa, phát sinh nhiều tệ nạn, phá vỡ cơ cấu đạo đức và nền tảng gia đình?
Làm sao có thể tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô, khi hằng ngày chúng ta vẫn dửng dưng với những cái xấu và ác, vô cảm trước sự dữ và tội, mặc nhiên thừa nhận sự gian dối, chấp nhận tệ nạn tham nhũng và không dám nói lên, hoặc đồng tình, chia sẻ với những người đang đấu tranh cho sự thật, đang phải trả giá cho công lý?
Làm sứ giả cho lòng thương xót của Chúa là mạnh dạn chỉ ra và phơi bày các vết thương trong xã hội, cho thấy đâu là nguồn gốc của mọi vết tử thương ấy, là cái cơ cấu của tội lỗi, là thể chế yếu kém hiện hành, với thứ chủ nghĩa không tưởng của một đảng độc tài chẳng màng đến việc điều hành, làm rạng rỡ tổ quốc, mà chỉ phá nát quốc gia, đày ải cả dân tộc.
Việc che đậy, chối bỏ các vết thương này sẽ dẫn đến tình trạng ngày một nguy hiểm, và cái chết của một đất nước, của một dân tộc là điều sẽ xảy ra không xa. Cần lắm một tình yêu liên đới và lòng thương cảm “xót ai cũng là xót phận mình”, mới có thể cùng nhau tìm kiếm những phương thế mới để chữa lành.
Và thuốc chữa lành chính là sống Lòng thương xót của Chúa khi ước muốn làm những điều tốt đẹp, khi tìm kiếm chân lý tránh xa sự giả dối, khi tìm kiếm sự tha thứ chứ không là sự trả thù, khi biết yêu thương chứ không phải thù hận. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, DCCT