Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, DCCT
Thái Hà (30.12.2015) – Đại văn hào William Shakespeare bảo rằng: “Đêm tối dù kéo dài thế nào đi chăng nữa, thì bình minh cũng sẽ luôn ló dạng.”
Bà ngôn sứ Anna trong bài Tin mừng hôm nay là mô mẫu điển hình về tâm thế của một con người biết sống bền bỉ niềm hy vọng, cậy trông. Không những vậy, bà còn là mẫu gương nổi bật cho dân trong Cựu Ước biết kiên vững trong niềm khắc khoải mong chờ Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa hứa ban.
Dân Israel xưa đã trải qua ngót nghét 4 ngàn năm sống trong cảnh lưu đầy, loạn lạc nơi đất khách quê người. Do đó, họ khao khát một Đấng Cứu Thế đến để giải thoát họ.
Về phía Thiên Chúa, Ngài không bao giờ thất tín với lời hứa đối với dân Ngài. Thậm chí Ngài còn ban cho dân Ngài hơn cả những gì họ chờ mong. Dân chỉ cầu mong một Đấng Cứu Thế giải phóng họ khỏi những lầm than, vất vả về mặt thể xác, nhưng Thiên Chúa ban cho họ một Đấng Cứu Thế có thể giải thoát con người họ cách toàn diện cả thể xác lẫn tinh thần. Vả lại, Đấng Cứu Thế của Thiên Chúa đến không chỉ cứu thoát riêng dân Israel, nhưng cứu thoát toàn thể nhân loại khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, như cụ già Simeon khi bồng ẵm Hài Nhi Giêsu trên tay đã được Thánh Thần thúc đẩy mà thốt lên: “Chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa dành sẵn cho muôn dân!” (Lc 2, 30 – 31).
Thiên Chúa chẳng bao giờ lãng quên những gì Ngài đã hứa. Nhưng để lời hứa của Thiên Chúa thành hiện thực trong đời bạn và tôi, thì bắt buộc chúng ta phải sống triệt để niềm tin yêu hy vọng vào Ngài. Bà Anna có lẽ đã chẳng bao giờ gặp được Hài Nhi Giêsu Cứu Thế trong Đền Thờ hôm nay nếu như bà không có những ngày tháng “ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.”