Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã được Chúa gọi về lúc 9 giờ 43 (15 giờ 43, giờ Việt Nam), Thứ Bảy, 31.12.2022 tại Đan viện Mẹ Giáo Hội (Mater Ecclesiae), nội thành Vatican.
Để tưởng nhớ người cha chung của Giáo Hội, chúng tôi xin gửi tới quý vị và các bạn những dòng tiểu sử của ngài. Bảng tiểu sử này đã được trang tin của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đăng dịp ngài từ nhiệm hồi cuối tháng 2 năm 2013.
TIỂU SỬ ĐỨC NGUYÊN GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI
Đức Bênêđictô XVI sinh ngày 16-4-1927 (Thứ Bảy Tuần Thánh) tại Marktl am Inn, thuộc giáo phận Passau, Đức quốc, và được rửa tội ngay ngày hôm đó. Cha của ngài là một nhân viên cảnh sát, xuất thân từ gia đình nông dân. Mẹ của ngài trước khi kết hôn từng làm nghề nấu nướng trong một số khách sạn. Một gia đình công giáo bình dân và đạo đức.
Thời thơ ấu và thiếu niên của Đức Bênêđictô XVI trôi qua êm ả ở Traunstein, một ngôi làng nhỏ gần biên giới Đức-Áo, cách Salzburg 30 cây số. Chính nơi đây, ngài nhận được nền giáo dục căn bản về nhân bản, văn hóa và đức tin Kitô giáo.
Tuổi thanh niên của ngài rơi vào một giai đoạn khó khăn của xã hội. Chế độ Đức quốc xã có thái độ thù nghịch với Giáo hội Công giáo. Chàng thanh niên Joseph Ratzinger tận mắt chứng kiến cảnh các linh mục bị đánh đập trước khi dâng lễ. Cũng chính trong giai đoạn này, ngài khám phá ra vẻ đẹp và chân lý nơi Chúa Kitô, phần lớn là nhờ ảnh hưởng của gia đình luôn sống tốt lành và cậy trông vào Chúa, gắn bó với Giáo hội trong mọi hoàn cảnh.
Từ năm 1946–1951, ngài học Triết và Thần học tại Freising và đại học München. Ngày 29-6-1951, ngài thụ phong linh mục, và một năm sau, bắt đầu dạy học ở trường Cao đẳng Freising.
Năm 1953, ngài nhận bằng Tiến sĩ thần học với luận án Dân Chúa và Nhà Chúa trong tư tưởng của Augustinô về Giáo hội.
Bốn năm sau, dưới sự hướng dẫn của Gottlieb Söhngen, một giáo sư nổi tiếng về Thần học cơ bản, linh mục Joseph Ratzinger nhận thêm một bằng Tiến sĩ với luận án về Thời gian và Lịch sử theo thánh Bônaventura.
Sau khi dạy Thần học cơ bản và Tín lý tại Freising, ngài tiếp tục dạy ở Bonn từ 1959–1963; tại Münster từ 1963–1966, và tại Tübingen từ 1966–1969. Trong năm 1969, ngài dạy về Tín lý và Lịch sử tín điều tại đại học Regensburg, đồng thời là Phó Viện trưởng tại đây.
Từ năm 1962–1965, ngài góp phần đáng kể cho Công đồng Vaticanô II trong tư cách chuyên viên, là cố vấn thần học cho Đức hồng y Joseph Frings, Tổng giám mục Köln (Cologne). Với những hoạt động trí thức phong phú, ngài được đề nghị làm việc cho Hội đồng Giám mục Đức cũng như cho Ủy ban thần học quốc tế.
Năm 1972, cùng với Hans Urs von Balthasar và nhiều nhà thần học nổi tiếng khác, ngài khởi xướng tạp chí thần học Communio (Hiệp Thông).
Ngày 25-3-1977, Đức Phaolô VI đặt ngài làm Tổng giám mục München và Freising. Ngài chọn khẩu hiệu “Người cộng tác của Chân lý”, và ngài giải thích: “Một đàng, khẩu hiệu này diễn tả mối tương quan giữa công việc trước đây của tôi, trong tư cách giáo sư, và nhiệm vụ mới. Cách tiếp cận khác nhau nhưng điều chính yếu vẫn là phục vụ chân lý. Đàng khác, tôi chọn khẩu hiệu này vì trong thế giới ngày nay, dường như chân lý bị bỏ quên và bị coi như cái gì đó quá lớn lao đối với con người, tuy nhiên nếu không có chân lý thì mọi sự đều sụp đổ”.
Cũng trong năm 1977, tại Công nghị hồng y vào ngày 27-6, Đức Phaolô VI nâng ngài lên hàng hồng y.
Năm 1978, Đức hồng y Joseph Ratzinger tham dự Mật tuyển viện bầu Đức giáo hoàng Gioan Phaolô I (ngày 25–26 tháng 8). Đến tháng 10, ngài lại dự Mật tuyển viện bầu Đức Gioan Phaolô II.
Năm 1980, tại Thượng Hội đồng Giám mục thế giới về đề tài “Sứ vụ của gia đình Kitô giáo trong thế giới ngày nay”, ngài đóng vai trò điều phối (relator). Trong Thượng Hội Đồng năm 1983 về “Hòa giải và sám hối”, ngài ở trong Chủ tọa đoàn.
Ngày 25-11-1981, Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, Chủ tịch Ủy ban Kinh Thánh và Ủy ban Thần học. Ngày 15-2-1982, ngài từ giã Tổng giáo phận München và Freising để về làm việc tại Rôma.
Trong thời gian làm Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, Đức hồng y Joseph Ratzinger cũng là Chủ tịch Ủy ban biên soạn Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo, được chính thức công bố vào năm 1992.
Trong những tác phẩm của ngài đã được xuất bản (trước khi làm giáo hoàng), người ta chú ý đặc biệt đến cuốn Dẫn vào Kitô giáo là tổng hợp những bài thuyết trình của ngài về Kinh Tin Kính; cuốn Tín điều và Giảng thuyết (1973) là tổng hợp những bài viết, bài giảng và suy niệm.
Ngoài ra, những cuốn sách được thực hiện dưới dạng phỏng vấn, như The Ratzinger Report (1985) về tình hình đức tin trong thế giới ngày nay, Muối cho đời (1996), đã thu hút sự quan tâm của độc giả trên toàn thế giới.
Sau khi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời, các hồng y đã triệu tập Mật tuyển viện, và ngày 19-4-2005, Đức hồng y Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo hoàng, lấy tước hiệu là Bênêđictô XVI. Lời đầu tiên vị tân giáo hoàng gửi đến toàn thể thế giới là: “Anh chị em thân mến, sau vị giáo hoàng vĩ đại Gioan Phaolô II, các hồng y đã bầu chọn tôi, một người thợ đơn sơ và khiêm hạ làm việc trong vườn nho của Chúa. Tôi cảm thấy được an ủi vì niềm tin rằng Chúa có thể làm việc và hành động ngay cả với những phương thế bất toàn, và trên hết mọi sự, tôi phó thác mình cho lời cầu nguyện của anh chị em”.
Trong Thánh Lễ khai mạc sứ vụ giáo hoàng, Đức Bênêđictô XVI nói với mọi người tham dự và với cả thế giới: “Mọi ý thức hệ về quyền lực đều hành động như nhau. Những ý thức hệ ấy biện minh cho việc tiêu diệt bất cứ cái gì có thể cản đường tiến bộ và giải phóng nhân loại. Còn Thiên Chúa, Đấng đã nên Chiên (xá tội), lại nói với chúng ta rằng: thế giới được cứu độ nhờ Đấng chịu đóng đinh trên thập giá, chứ không phải nhờ những kẻ đóng đinh tha nhân”. Rồi ngài nói thêm: “Xin cầu nguyện cho tôi để tôi không vì sợ hãi sói dữ mà bỏ trốn”.
Sau khi từ nhiệm ngôi vị Giáo Hoàng vào cuối tháng 2 năm 2013, ngài sống ẩn dật cầu nguyện tại Đan viện Mẹ Giáo hội ở nội thành Vatican.