I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,26-38.
(c 26) Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, (c 27) gặp một Trinh Nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít, Trinh Nữ ấy tên là Ma-ri-a. (c 28) Sứ thần vào nhà Trinh Nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. (c 29) Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. (c 30) Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. (c 31) Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. (c 32) Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. (c 33) Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
(c 34) Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !” (c 35) Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà. Vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. (c 36) Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. (c 37) Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
(c 38) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
2. Ý CHÍNH:
Câu chuyện truyền tin của sứ thần Ga-bri-el cho đức trinh nữ Ma-ri-a biểu lộ tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ loài người. Thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu cần có để chuẩn bị đón Chúa đến ban ơn cứu độ.
3. CHÚ THÍCH:
– (c 26) + Gáp-ri-en: là một trong bảy Tổng Lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu Ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (Đn 8,16).
– (c 27) + Trinh nữ: Từ này không xác định về đức trinh khiết của Đức Ma-ri-a, vì trinh nữ đơn giản chỉ là một cô gái chưa lấy chồng. Sự thanh khiết của Đức Ma-ri-a được khẳng định qua lời thưa với sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Sở dĩ trinh nữ Ma-ri-a được chọn cho thấy lời tuyên sấm của I-sai-a về một trinh nữ thụ thai và sinh con trai là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đã được ứng nghiệm nơi Đức Ma-ri-a (x. Is 7,14 ; Mt 1,23). + Đã đính hôn: Từ khi đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này được kể là con chính thức của hai người. Tuy nhiên, theo phong tục trong xã hội Do Thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi họ đàng trai tổ chức lễ cưới đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18). + Thuộc nhà Đa-vít:Chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế vì theo sấm ngôn của I-sai-a thì Đấng Cứu Thế phát xuất từ gốc là tổ phụ Giê-sê cha của Đa-vít (x. Is 11,1) và nơi sinh của Người là Bê-lem, quê hương của vua Đa-vít (x. Mk 5,1). + Ma-ri-a: hay Mi-ry-am, là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su (x. Cv 1,14).
– (c 28) + “Mừng vui lên”: Đây không phải là cách chào giữa những người dân bình thường, nhưng là lời chào đặc biệt chỉ dành cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “Đầy ân sủng”: Tước hiệu dành riêng cho Đức Ma-ri-a, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội và luôn có Chúa ở cùng.
– (c 29) + “Bà bối rối và tự hỏi”: Khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Da-ca-ri-a (x. Lc 1,12), ở đây Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của lời Chúa vừa mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
– (c 31) + Giê-su: nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11).
– (c 32) + Con Đấng Tối Cao: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các ông vua dòng tộc Đa-vít. Qua câu này, sứ thần ám chỉ Đức Giê-su là vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ cai trị Ít-ra-en, và triều đại của Người sẽ vững bền mãi mãi.
– (c 34) + “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không ‘biết’ đến người nam!”: “Biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Câu thắc mắc của Ma-ri-a không chứng minh việc Ma-ri-a đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh như có người lầm tưởng. Qua câu này, Ma-ri-a chỉ thắc mắc làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay lúc này được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ đính hôn để làm vợ thánh Giu-se về luật pháp, và chưa được Giu-se tổ chức rước dâu về nhà.
– (c 35) + Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà…”: Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a hiểu việc thụ thai của Ma-ri-a xảy ra do quyền năng Thánh Thần, để ứng nghiệm lời tuyên sấm của I-sai-a: Đấng Cứu Thế sẽ do một gái đồng trinh thụ thai và sinh ra (x. Is 7,14). + rợp bóng: Kiểu nói nhắc lại sự kiện đã từng xảy ra trong sa mạc, khi dân Do Thái vượt qua sa mạc để về Đất Hứa: Đức Chúa luôn hiện diện giữa dân Người bằng cách cho cột mây “rợp bóng” che phủ Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ (x. Xh 40,34-38). Ngoài ra, “rợp bóng” cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa, giống như chim phượng hoàng sải cánh bao phủ và che chở con dân Ít-ra-en của Người (x. Tv 17,8). + “Đấng Thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa, được hiến “thánh” dành riêng cho Thiên Chúa để thi hành sứ mạng cứu thế.
– (c 36) + Kìa bà Ê-li-sa-bét…: Sứ thần chứng minh quyền năng của Thiên Chúa qua việc bà chị họ Ê-li-sa-bét, tuy đã cao tuổi và bị hiếm hoi, nhưng đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân thụ thai con trai và tới nay đã được sáu tháng.
– (c 38) +“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: Khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a biểu lộ đức khiêm nhường và lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa. + “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”: Ma-ri-a đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thực vậy, ngay sau lời thưa “Xin Vâng”, Thánh Thần đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai, mà không cần tới việc tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy trở thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con”, “Ngôi Hai” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính: vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm.
HỎI: Thắc mắc của Đức Ma-ri-a và của ông Da-ca-ri-a (x. Lc 1,18) có giống nhau hay không?:
ĐÁP: Cả hai cùng đưa ra thắc mắc, nhưng trong hai tâm trạng khác nhau: Thắc mắc của Da-ca-ri-a biểu lộ tâm trạng hoài nghi về quyền năng của Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt cấm khẩu không thể nói được. Sự cấm khẩu này là dấu chỉ bà Ê-li-sa-bét chắc chắn sẽ có thai cách khác thường (x. Lc 1,20). Còn lời thắc mắc của Đức Ma-ri-a biểu lộ tâm trạng tin tưởng: Ma-ri-a muốn tìm biết thánh ý Chúa để xin vâng. Do đó, Mẹ đã được sứ thần ca tụng là Đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và được bà Ê-li-sa-bét khen ngợi là “diễm phúc, vì đã tin lời Chúa phán sẽ được thực hiện” (x. Lc 1,45).
4. CÂU HỎI: 1) Thánh Kinh cho biết có mấy Tổng lãnh thiên thần? Các Tổng lãnh thiên thần được nêu đích danh là những ai? Ý nghĩa của các tên gọi của các vị ấy là gì? 2) Tại sao Thiên Chúa lại chọn Ma-ri-a đang là một “Trinh nữ” để làm mẹ Đấng Cứu Thế? 3) Lúc thưa “Xin vâng” để thụ thai Đấng Cứu Thế do quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã kết hôn với thánh Giu-se chưa? 4) Câu thắc mắc của Đức Ma-ri-a khác với thắc mắc của ông Gia-ca-ri-a ra sao? 5) Sứ thần muốn nói gì qua câu: ”Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
2. CÂU CHUYỆN: ĐẾN VỚI CHÚA GIÊ-SU NHỜ MẸ MA-RI-A (AD JESUM PER MARIAM):
Vào một buổi chiều đông lạnh giá, PHUN-TƠN (FULTON OURSLER), một tín hữu bị mất đức tin bỏ nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp quá nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Khi đi ngang qua đại lộ Nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình nào đó cuốn hút ông vào nhà thờ và đẩy đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một lát im lặng, Phun-tơn tự nhiên đã thốt ra một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, có thể chỉ một lát nữa thôi là con sẽ lại đổi ý để tiếp tục bài bác chế diễu các việc đạo đức con đang làm để trở lại con đường vô tín. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật sự bình an, dù con đang gặp nhiều khó khăn nan giải. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giê-su ban thêm đức tin cho con”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều lạ lùng kỳ diệu xảy ra nơi bản thân, biến ông trở thành một con người mới: Ông đã có lại đức tin ! Từ đây, ông luôn sống kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng cho Chúa Giê-su bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái. Chính nhờ Mẹ mà ông đã đến được với Chúa Giê-su.
3. SUY NIỆM: sống Xin Vâng trong cả cuộc đời:
Hôm nay là Chúa Nhật 4 Mùa Vọng, Hội Thánh chọn Tin Mừng Lu-ca (Lc 1,26-38) về sự kiện sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a, qua đó trình bày cho chúng ta tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ loài người. Thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu cần có để chuẩn bị đón Chúa đến ban ơn cứu độ.
1) CẢM TẠ HỒNG ÂN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA:
– Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành dã thuật lại: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,34). Nhà Tạm là nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước, trong đó có hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa đã được Thiên Chúa ban cho dân Ít-ra-en qua ông Mô-sê trên núi Xi-nai. Hòm bia Giao Ước là hình ảnh của Đức Ma-ri-a thời Tân Ước.
– Trong biến cố truyền tin, sứ thần Gáp-ri-en đã hiện đến chào kính Đức Ma-ri-a là đấng đầy ân sủng luôn được Thiên Chúa ở cùng. Rồi sứ thần báo tin vui Ma-ri-a đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của hài nhi Cứu Thế Giê-su. Bấy giờ Ma-ri-a đã thắc mắc làm sao có thai được “khi không biết đến việc vợ chồng”. Bấy giờ sứ thần đã mặc khải cho Ma-ri-a về mầu nhiệm trinh thai: cô sẽ được thụ thai do quyền năng Thánh Thần, hầu ứng nghiệm sấm ngôn của I-sai-a: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14).
– Câu chuyện sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a cho thấy tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người. Trong những ngày này chúng ta hãy năng dâng những lời nguyện tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một Đấng “Em-ma-nu-en” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23), để chúng ta có thể gặp gỡ, tâm sự và đón nhận được hồng ân cứu độ do Người ban cho chúng ta.
2) SỐNG TINH THẦN MÙA VỌNG NOI GƯƠNG ĐỨC MA-RI-A:
Điểm nổi bật của Mẹ Ma-ri-a mà Hội Thánh muốn các tín hữu suy niệm và học tập noi gương trong mùa Vọng này là thái độ khiêm cung tin cậy phó thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, thể hiện qua lời thưa “xin vâng” của Đức Mẹ.
– “Xin vâng”: Trái với thái độ kiêu ngạo không vâng lời của E-và kết hợp với A-đam xưa trong vườn địa đàng, Đức Ma-ri-a là E-và Mới thời Tân Ước đã cộng tác với A-đam Mới là Chúa Giê-su để lắng nghe Lời Chúa, khiêm tốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa và cúi đầu thưa “Xin Vâng”. Ngay sau lời thưa này, Chúa Thánh Thần đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai, như lời kinh truyền tin: “Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thê làm người, và ở cùng chúng tôi”. Từ đây, Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ các biến cố xảy ra và “suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2,19). Mẹ mang Thai Nhi đi thăm gia đình Gia-ca-ri-a và làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng bà I-sa-ve (Lc 1,41). Nhất là Mẹ đã “xin vâng” khi dâng Con Yêu cho Thiên Chúa trong biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su.
– Phó thác: Qua biến cố truyền tin, chúng ta cũng noi gương Mẹ để cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng. Ngày nay việc giúp những người không tín nhận biết tin thờ Thiên Chúa, cũng như chừa cải các thói hư nơi bản thân và xóa bỏ các tệ nạn xã hội như xì-ke ma-túy, cờ bạc đĩ điếm, lừa đảo cướp giật… không dễ thực hiện. Nhưng lại không khó trước mặt Thiên Chúa, vì: “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt kết quả, chúng ta cần noi gương Mẹ Ma-ri-a năng thưa chuyện với Chúa Giê-su và thực hành lời Người dạy, như trong tiệc cưới Ca-na Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn: “Họ hết rượu rồi” và dạy các người giúp việc phải vâng lời Chúa Giê-su: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,3-5).
– Tất cả đều là hồng ân: Khi gặp sự may lành, ta cúi đầu cảm tạ hồng ân Chúa ban. Nhưng ngay cả những lúc gặp gian nan thử thách, chúng ta cũng vẫn cảm tạ và thưa “Xin Vâng”, vì biết rằng: mọi sự Chúa để xảy ra đều hữu ích cho phần rỗi chúng ta, vì Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành, Chúa không bao giờ triệt đường sống của chúng ta: “Chúa đóng cửa chính, nhưng vẫn mở cửa sổ” và lời thánh Phao-lô: “Tất cả đều là hồng ân” (x. 1 Cr 15,10).
4. THẢO LUẬN: 1) Noi gương Thánh Mẫu Ma-ri-a xưa, mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để có thể luôn thưa lời “Xin Vâng” theo Thánh ý Thiên Chúa, dù gặp tai nạn, rủi ro, thất bại hay những điều trái ý mình? 2) Bạn nên làm gì để động viên người khác xin vâng ý Chúa nếu họ gặp những điều rủi ro trái ý như: thi rớt đại học, có người thân mới qua đời, gặp tai nạn giao thông phải nằm điều trị trong bệnh viện…?
5. LỜI CẦU:
– LẠY CHÚA, chỉ còn ít ngày nữa là tới đại lễ Giáng Sinh. Chung quanh chúng con, người người đang tấp nập mua sắm và trang hoàng nhà cửa để chuẩn bị mừng ngày đại lễ. Nhưng có lẽ điều Chúa muốn chúng con làm lúc này là chuẩn bị tâm hồn của chúng con, để lòng chúng con trở thành một hang đá thanh sạch và đầy tràn ánh sáng của Chúa, xứng đáng đón Chúa đến thăm vào Đêm Giáng Sinh. Xin Chúa giúp chúng con thật lòng ăn năn sám hối tội lỗi, quyết tâm khiêm nhường phục vụ tha nhân.
– Nhất là cho chúng con biết chia sẻ tình thương cho những người nghèo khổ: Các cụ già cô đơn không nơi nương tựa, các trẻ em khiếm thị và các người khuyết tật, các trẻ mồ côi lang thang đầu đường xó chợ kiếm sống, và hết những bệnh nhân yếu đau liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị… Nhờ đó chúng con xứng đáng được đón rước Chúa đến ngự trong lòng chúng con trong lễ Giáng Sinh và ban hồng ân cứu độ cho chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTMHIỆP SỐNG TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG B (2 Sm 7,1-5.6b-12.14a.16 ; Rm 16,25-27 ; Lc 1,26-38)
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,26-38.
(c 26) Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, (c 27) gặp một Trinh Nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít, Trinh Nữ ấy tên là Ma-ri-a. (c 28) Sứ thần vào nhà Trinh Nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. (c 29) Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. (c 30) Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. (c 31) Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. (c 32) Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. (c 33) Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
(c 34) Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !” (c 35) Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà. Vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. (c 36) Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. (c 37) Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
(c 38) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
2. Ý CHÍNH:
Câu chuyện truyền tin của sứ thần Ga-bri-el cho đức trinh nữ Ma-ri-a biểu lộ tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ loài người. Thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu cần có để chuẩn bị đón Chúa đến ban ơn cứu độ.
3. CHÚ THÍCH:
– (c 26) + Gáp-ri-en: là một trong bảy Tổng Lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu Ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (Đn 8,16).
– (c 27) + Trinh nữ: Từ này không xác định về đức trinh khiết của Đức Ma-ri-a, vì trinh nữ đơn giản chỉ là một cô gái chưa lấy chồng. Sự thanh khiết của Đức Ma-ri-a được khẳng định qua lời thưa với sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Sở dĩ trinh nữ Ma-ri-a được chọn cho thấy lời tuyên sấm của I-sai-a về một trinh nữ thụ thai và sinh con trai là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đã được ứng nghiệm nơi Đức Ma-ri-a (x. Is 7,14 ; Mt 1,23). + Đã đính hôn: Từ khi đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này được kể là con chính thức của hai người. Tuy nhiên, theo phong tục trong xã hội Do Thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi họ đàng trai tổ chức lễ cưới đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18). + Thuộc nhà Đa-vít:Chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế vì theo sấm ngôn của I-sai-a thì Đấng Cứu Thế phát xuất từ gốc là tổ phụ Giê-sê cha của Đa-vít (x. Is 11,1) và nơi sinh của Người là Bê-lem, quê hương của vua Đa-vít (x. Mk 5,1). + Ma-ri-a: hay Mi-ry-am, là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su (x. Cv 1,14).
– (c 28) + “Mừng vui lên”: Đây không phải là cách chào giữa những người dân bình thường, nhưng là lời chào đặc biệt chỉ dành cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “Đầy ân sủng”: Tước hiệu dành riêng cho Đức Ma-ri-a, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội và luôn có Chúa ở cùng.
– (c 29) + “Bà bối rối và tự hỏi”: Khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Da-ca-ri-a (x. Lc 1,12), ở đây Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của lời Chúa vừa mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
– (c 31) + Giê-su: nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11).
– (c 32) + Con Đấng Tối Cao: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các ông vua dòng tộc Đa-vít. Qua câu này, sứ thần ám chỉ Đức Giê-su là vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ cai trị Ít-ra-en, và triều đại của Người sẽ vững bền mãi mãi.
– (c 34) + “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không ‘biết’ đến người nam!”: “Biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Câu thắc mắc của Ma-ri-a không chứng minh việc Ma-ri-a đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh như có người lầm tưởng. Qua câu này, Ma-ri-a chỉ thắc mắc làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay lúc này được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ đính hôn để làm vợ thánh Giu-se về luật pháp, và chưa được Giu-se tổ chức rước dâu về nhà.
– (c 35) + Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà…”: Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a hiểu việc thụ thai của Ma-ri-a xảy ra do quyền năng Thánh Thần, để ứng nghiệm lời tuyên sấm của I-sai-a: Đấng Cứu Thế sẽ do một gái đồng trinh thụ thai và sinh ra (x. Is 7,14). + rợp bóng: Kiểu nói nhắc lại sự kiện đã từng xảy ra trong sa mạc, khi dân Do Thái vượt qua sa mạc để về Đất Hứa: Đức Chúa luôn hiện diện giữa dân Người bằng cách cho cột mây “rợp bóng” che phủ Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ (x. Xh 40,34-38). Ngoài ra, “rợp bóng” cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa, giống như chim phượng hoàng sải cánh bao phủ và che chở con dân Ít-ra-en của Người (x. Tv 17,8). + “Đấng Thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa, được hiến “thánh” dành riêng cho Thiên Chúa để thi hành sứ mạng cứu thế.
– (c 36) + Kìa bà Ê-li-sa-bét…: Sứ thần chứng minh quyền năng của Thiên Chúa qua việc bà chị họ Ê-li-sa-bét, tuy đã cao tuổi và bị hiếm hoi, nhưng đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân thụ thai con trai và tới nay đã được sáu tháng.
– (c 38) +“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: Khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a biểu lộ đức khiêm nhường và lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa. + “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”: Ma-ri-a đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thực vậy, ngay sau lời thưa “Xin Vâng”, Thánh Thần đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai, mà không cần tới việc tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy trở thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con”, “Ngôi Hai” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính: vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm.
HỎI: Thắc mắc của Đức Ma-ri-a và của ông Da-ca-ri-a (x. Lc 1,18) có giống nhau hay không?:
ĐÁP: Cả hai cùng đưa ra thắc mắc, nhưng trong hai tâm trạng khác nhau: Thắc mắc của Da-ca-ri-a biểu lộ tâm trạng hoài nghi về quyền năng của Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt cấm khẩu không thể nói được. Sự cấm khẩu này là dấu chỉ bà Ê-li-sa-bét chắc chắn sẽ có thai cách khác thường (x. Lc 1,20). Còn lời thắc mắc của Đức Ma-ri-a biểu lộ tâm trạng tin tưởng: Ma-ri-a muốn tìm biết thánh ý Chúa để xin vâng. Do đó, Mẹ đã được sứ thần ca tụng là Đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và được bà Ê-li-sa-bét khen ngợi là “diễm phúc, vì đã tin lời Chúa phán sẽ được thực hiện” (x. Lc 1,45).
4. CÂU HỎI: 1) Thánh Kinh cho biết có mấy Tổng lãnh thiên thần? Các Tổng lãnh thiên thần được nêu đích danh là những ai? Ý nghĩa của các tên gọi của các vị ấy là gì? 2) Tại sao Thiên Chúa lại chọn Ma-ri-a đang là một “Trinh nữ” để làm mẹ Đấng Cứu Thế? 3) Lúc thưa “Xin vâng” để thụ thai Đấng Cứu Thế do quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã kết hôn với thánh Giu-se chưa? 4) Câu thắc mắc của Đức Ma-ri-a khác với thắc mắc của ông Gia-ca-ri-a ra sao? 5) Sứ thần muốn nói gì qua câu: ”Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
2. CÂU CHUYỆN: ĐẾN VỚI CHÚA GIÊ-SU NHỜ MẸ MA-RI-A (AD JESUM PER MARIAM):
Vào một buổi chiều đông lạnh giá, PHUN-TƠN (FULTON OURSLER), một tín hữu bị mất đức tin bỏ nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp quá nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Khi đi ngang qua đại lộ Nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình nào đó cuốn hút ông vào nhà thờ và đẩy đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một lát im lặng, Phun-tơn tự nhiên đã thốt ra một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, có thể chỉ một lát nữa thôi là con sẽ lại đổi ý để tiếp tục bài bác chế diễu các việc đạo đức con đang làm để trở lại con đường vô tín. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật sự bình an, dù con đang gặp nhiều khó khăn nan giải. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giê-su ban thêm đức tin cho con”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều lạ lùng kỳ diệu xảy ra nơi bản thân, biến ông trở thành một con người mới: Ông đã có lại đức tin ! Từ đây, ông luôn sống kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng cho Chúa Giê-su bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái. Chính nhờ Mẹ mà ông đã đến được với Chúa Giê-su.
3. SUY NIỆM: sống Xin Vâng trong cả cuộc đời:
Hôm nay là Chúa Nhật 4 Mùa Vọng, Hội Thánh chọn Tin Mừng Lu-ca (Lc 1,26-38) về sự kiện sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a, qua đó trình bày cho chúng ta tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ loài người. Thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Ý Chúa và mau mắn “Xin Vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu cần có để chuẩn bị đón Chúa đến ban ơn cứu độ.
1) CẢM TẠ HỒNG ÂN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA:
– Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành dã thuật lại: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,34). Nhà Tạm là nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước, trong đó có hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa đã được Thiên Chúa ban cho dân Ít-ra-en qua ông Mô-sê trên núi Xi-nai. Hòm bia Giao Ước là hình ảnh của Đức Ma-ri-a thời Tân Ước.
– Trong biến cố truyền tin, sứ thần Gáp-ri-en đã hiện đến chào kính Đức Ma-ri-a là đấng đầy ân sủng luôn được Thiên Chúa ở cùng. Rồi sứ thần báo tin vui Ma-ri-a đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của hài nhi Cứu Thế Giê-su. Bấy giờ Ma-ri-a đã thắc mắc làm sao có thai được “khi không biết đến việc vợ chồng”. Bấy giờ sứ thần đã mặc khải cho Ma-ri-a về mầu nhiệm trinh thai: cô sẽ được thụ thai do quyền năng Thánh Thần, hầu ứng nghiệm sấm ngôn của I-sai-a: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14).
– Câu chuyện sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a cho thấy tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người. Trong những ngày này chúng ta hãy năng dâng những lời nguyện tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một Đấng “Em-ma-nu-en” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23), để chúng ta có thể gặp gỡ, tâm sự và đón nhận được hồng ân cứu độ do Người ban cho chúng ta.
2) SỐNG TINH THẦN MÙA VỌNG NOI GƯƠNG ĐỨC MA-RI-A:
Điểm nổi bật của Mẹ Ma-ri-a mà Hội Thánh muốn các tín hữu suy niệm và học tập noi gương trong mùa Vọng này là thái độ khiêm cung tin cậy phó thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, thể hiện qua lời thưa “xin vâng” của Đức Mẹ.
– “Xin vâng”: Trái với thái độ kiêu ngạo không vâng lời của E-và kết hợp với A-đam xưa trong vườn địa đàng, Đức Ma-ri-a là E-và Mới thời Tân Ước đã cộng tác với A-đam Mới là Chúa Giê-su để lắng nghe Lời Chúa, khiêm tốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa và cúi đầu thưa “Xin Vâng”. Ngay sau lời thưa này, Chúa Thánh Thần đã tác động làm cho Ma-ri-a thụ thai, như lời kinh truyền tin: “Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thê làm người, và ở cùng chúng tôi”. Từ đây, Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ các biến cố xảy ra và “suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2,19). Mẹ mang Thai Nhi đi thăm gia đình Gia-ca-ri-a và làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng bà I-sa-ve (Lc 1,41). Nhất là Mẹ đã “xin vâng” khi dâng Con Yêu cho Thiên Chúa trong biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su.
– Phó thác: Qua biến cố truyền tin, chúng ta cũng noi gương Mẹ để cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng. Ngày nay việc giúp những người không tín nhận biết tin thờ Thiên Chúa, cũng như chừa cải các thói hư nơi bản thân và xóa bỏ các tệ nạn xã hội như xì-ke ma-túy, cờ bạc đĩ điếm, lừa đảo cướp giật… không dễ thực hiện. Nhưng lại không khó trước mặt Thiên Chúa, vì: “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt kết quả, chúng ta cần noi gương Mẹ Ma-ri-a năng thưa chuyện với Chúa Giê-su và thực hành lời Người dạy, như trong tiệc cưới Ca-na Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn: “Họ hết rượu rồi” và dạy các người giúp việc phải vâng lời Chúa Giê-su: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,3-5).
– Tất cả đều là hồng ân: Khi gặp sự may lành, ta cúi đầu cảm tạ hồng ân Chúa ban. Nhưng ngay cả những lúc gặp gian nan thử thách, chúng ta cũng vẫn cảm tạ và thưa “Xin Vâng”, vì biết rằng: mọi sự Chúa để xảy ra đều hữu ích cho phần rỗi chúng ta, vì Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành, Chúa không bao giờ triệt đường sống của chúng ta: “Chúa đóng cửa chính, nhưng vẫn mở cửa sổ” và lời thánh Phao-lô: “Tất cả đều là hồng ân” (x. 1 Cr 15,10).
4. THẢO LUẬN: 1) Noi gương Thánh Mẫu Ma-ri-a xưa, mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để có thể luôn thưa lời “Xin Vâng” theo Thánh ý Thiên Chúa, dù gặp tai nạn, rủi ro, thất bại hay những điều trái ý mình? 2) Bạn nên làm gì để động viên người khác xin vâng ý Chúa nếu họ gặp những điều rủi ro trái ý như: thi rớt đại học, có người thân mới qua đời, gặp tai nạn giao thông phải nằm điều trị trong bệnh viện…?
5. LỜI CẦU:
– LẠY CHÚA, chỉ còn ít ngày nữa là tới đại lễ Giáng Sinh. Chung quanh chúng con, người người đang tấp nập mua sắm và trang hoàng nhà cửa để chuẩn bị mừng ngày đại lễ. Nhưng có lẽ điều Chúa muốn chúng con làm lúc này là chuẩn bị tâm hồn của chúng con, để lòng chúng con trở thành một hang đá thanh sạch và đầy tràn ánh sáng của Chúa, xứng đáng đón Chúa đến thăm vào Đêm Giáng Sinh. Xin Chúa giúp chúng con thật lòng ăn năn sám hối tội lỗi, quyết tâm khiêm nhường phục vụ tha nhân.
– Nhất là cho chúng con biết chia sẻ tình thương cho những người nghèo khổ: Các cụ già cô đơn không nơi nương tựa, các trẻ em khiếm thị và các người khuyết tật, các trẻ mồ côi lang thang đầu đường xó chợ kiếm sống, và hết những bệnh nhân yếu đau liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị… Nhờ đó chúng con xứng đáng được đón rước Chúa đến ngự trong lòng chúng con trong lễ Giáng Sinh và ban hồng ân cứu độ cho chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM