12 Tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Tây Ban Nha được nâng lên hàng Chân Phước

Đức Thánh Cha Phanxicô, sau khi xem xét các kết luận tích cực rút ra từ cuộc phân tích do các nhà sử học, thần học, các Đức hồng y, giám mục và các cố vấn của Bộ Phong Thánh về cuộc đời, các nhân đức và sự tử đạo của các tôi tớ Chúa là Vicente Renuncio Toribio và 11 người bạn đồng hành, đã chấp thuận việc ban hành Sắc lệnh liên quan tới sự tử đạo của các Đấng.

12 nhà thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế, bao gồm sáu linh mục và sáu thầy trợ sĩ, thành viên của hai cộng đoàn Dòng Chúa Cứu Thế Hằng Cứu Giúp và Thánh Michael the Archangel ở Madrid, đều chịu tử đạo trong khoảng thời gian từ ngày 20 tháng 7 đến ngày 7 tháng 11 năm 1936, khi cuộc đàn áp tôn giáo đẫm máu bùng nổ tại Tây Ban Nha cho đến tận năm 1939.

Dưới đây là tiểu sử sơ lược của các vị tôi tớ Chúa mới được nâng lên bậc Chân Phước:

1. Linh mục Vicente Renuncio Toribio sinh tại Villayuda (Burgos) vào ngày 11 tháng 9 năm 1876. Ngài gia nhập Dòng Chúa Cứu Thế và tuyên khấn vào ngày 8 tháng 9 năm 1895. Thụ phong linh mục ngày 23 tháng 3 năm 1901, ngài tận tụy với công việc truyền giáo, đào tạo và giảng dạy trong tiểu chủng viện. Từ năm 1912 đến năm 1923, ngài sống tại cộng đoàn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Madrid. Ngài là Cố vấn Tỉnh Dòng và là biên tập viên của tạp chí Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Sau một thời gian ngắn vắng mặt, ngài trở lại Madrid với tư cách là Giám Đốc Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cho đến tháng 7 năm 1936, khi bắt đầu cuộc đàn áp, ngài nương náu trong nhà của những người bạn của gia đình. Bị bắt vào ngày 17 tháng 9, ngài ở trong tù cho đến ngày 7 tháng 11 khi ngài bị giết. Khi rời phòng giam, người ta đã nghe thấy ngài thốt lên: “Tôi hiến dâng cuộc đời mình cho các anh em của tôi ở Tây Ban Nha, cho toàn thể Hội Dòng và cho đất nước Tây Ban Nha bất hạnh”.

2. Linh mục Crescencio Severo Ortiz Blanco, sinh ra ở Pamplona vào ngày 10 tháng 3 năm 1881. Ngài tuyên khấn vào ngày 24 tháng 9 năm 1900 và được phong chức vào ngày 28 tháng 12 năm 1905. Tích cực trong các cuộc đại phúc và trong công việc giảng dạy triết học, ông sống trong các cộng đồng Astorga, Cuenca, Valencia và Barcelona. Được thuyên chuyển đến Madrid vào ngày 13 tháng 7 năm 1936, trong cộng đoàn Tổng lãnh thiên thần St Michael, vào ngày 20 tháng 7, ngài bị dân quân bắt và giết cùng với các thầy của mình là Ángel Martínez Miquélez và Bernardo (Gabriel) Sáiz Gutiérrez.

3. Linh mục Ángel Martínez Miquélez, sinh tại Funes (Navarre) ngày 2 tháng 3 năm 1907. Được gia nhập Dòng Chúa Cứu Thế, ngài tuyên khấn vào ngày 24 tháng 8 năm 1925. Thụ phong linh mục ngày 20 tháng 9 năm 1930, ngài chuyên tâm giảng dạy và truyền giáo tông đồ, sống trong các cộng đoàn khác nhau. Vào ngày 10 tháng 7 năm 1936, ngài được chuyển từ cộng đoàn Mẹ Hằng Cứu Giúp đến cộng đoàn St Michael . Vào ngày 20 tháng 7, khi cuộc đàn áp bắt đầu, ngài rời nhà cùng với Cha Crescencio Ortiz và Thầy Bernardo Sáiz (Gabriel) để tìm nơi ẩn náu an toàn. Trên đường đi, họ bị dân quân bắt và giết chết.

4. Thầy Bernardo (Gabriel) Sáiz Gutiérrez, sinh tại Melgosa (Burgos) vào ngày 23 tháng 7 năm 1896. Ngài lãnh nhận tu phục Dòng Chúa Cứu Thế vào ngày 12 tháng 11 năm 1919 và tuyên khấn vào năm sau đó nhằm ngày 13 tháng 11. Sau khi ở trong cộng đoàn Pamplona, vào năm 1925, ngài được chuyển đến cộng đồng của Thánh Michael ở Madrid. Ngài là một tu sĩ mẫu mực vì tinh thần luôn sẵn sàng trợ giúp và sống đời cầu nguyện, đồng thời luôn tận tâm phục vụ trong nhà bếp. Cùng với các Cha Crescencio Ortiz và Ángel Martínez, ngài đã tử đạo vào ngày 20 tháng 7 năm 1936.

5. Thầy Nicesio Pérez del Palomar Quincoces, sinh tại Tuesta (Álava) vào ngày 2 tháng 4 năm 1859. Ngài gia nhập Hội Dòng và tuyên khấn vào ngày 30 tháng 3 năm 1891. Thầy là một người có tính các cương quyết và ngoan cường, được hỗ trợ bởi một đức tin vững chắc và được đời sống thiêng liêng. Thầy làm thợ mộc, thợ làm vườn, nuôi ong, thợ xây và quản lý các công việc sửa chữa ở các cộng đồng khác nhau.Thầy chuyển đến Madrid vào năm 1934 để tham gia cộng đoàn Mẹ Hằng Cứu Giúp. Khi bắt đầu cuộc đàn áp, ở tuổi bảy mươi và gần như mù lòa, thầy cùng với thầy Gregorio Zugasti Fernández de Esquide tìm kiếm sự che chở từ nơi các gia đình thân quen. Bị bắt vào chiều ngày 14 tháng 8 năm 1936, thầy bị giết hai ngày sau đó.

6. Gregorio Zugasti Fernández de Esquide, sinh ra ở Murillo de Yerri (Navarre) vào ngày 12 tháng 3 năm 1884. Thầy tuyên khấn vào ngày 25 tháng 12 năm 1912 và sống ở Madrid trong cộng đoàn Mẹ Hằng Cứu Giúp, làm việc trong nhà xuất bản. Được đánh là một tu sĩ thánh thiện, một người làm việc đáng tin cậy và rất vâng lời, thầy trở nên chứng tá của lòng bác ái thấm đượm Tin Mừng của mình. Ngài không bỏ rơi người anh em già cả Nicesio Pérez của mình trong cuộc đàn áp, cùng chịu sự tử đạo với nhau vào ngày 16 tháng 8 năm 1936.

7. Thầy Aniceto Lizasoain Lizaso, sinh ngày 17 tháng 4 năm 1877 tại Irañeta (Navarre). Thầy tuyên khấn để trở thành một tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế vào ngày 15 tháng 10 năm 1896 và sống trong các cộng đoàn khác nhau, ngoài các công việc trong nhà khác nhau, thầy còn đảm trách Phòng thánh, thủ quỹ, ông từ. Mặc dù ước mơ trở thành một linh mục khó đạt được, nhưng thầy vẫn chấp nhận là một thầy trợ sĩ chứ không muốn rời khỏi Nhà dòng. Khi bắt đầu cuộc đàn áp, thầy rời nhà Dòng ở Madrid để tìm kiếm sự che chở từ bạn bè. Cuối cùng, thầy được đưa vào một ngôi nhà trọ và theo đơn tố cáo, vào ngày 18 tháng 8 năm 1936, thầy bị bắt và bị giết.

8. Linh mục José María Urruchi Ortiz sinh ra ở Miranda de Ebro (Burgos) vào ngày 17 tháng 2 năm 1909. Sau khi tuyên khấn vào ngày 24 tháng 8 năm 1926, ngài tiếp tục việc học hành với sự bền bỉ và nỗ lực tại Astorga. Thụ phong linh mục ngày 20 tháng 10 năm 1932, ngài được chuyển đến Nava del Rey và năm 1934-1935 đến Coruña, Cuenca và Vigo. Vào tháng 10 năm 1935, ngài được chuyển đến Madrid ở cộng đoàn Mẹ Hằng Cứu Giúp, nơi ngài ở lại cho đến ngày 20 tháng 7 năm 1936, khi bị bức hại, ông rời khỏi nhà để tới trú ẩn ở một gia đình thân quen. Sau một cuộc truy lùng, vào ngày 22 tháng 8 năm 1936, ngài bị bắt cùng với thầy José Joaquín Erviti Insausti và bị giết trong đêm, khi mới 27 tuổi.

9. Thầy José Joaquín (Pascual) Erviti Insausti, sinh ra tại Imotz (Navarre) vào ngày 15 tháng 11 năm 1902. Thầy tuyên khấn vào ngày 24 tháng 2 năm 1930 và được gửi đến cộng đoàn Astorga. Được chuyển đến Madrid vào ngày 24 tháng 2 năm 1935 cho cộng đoàn Mẹ Hằng Cứu Giúp, thầy vẫn ở đó cho đến tháng 7 năm 1936, làm phụ bếp. Bị buộc phải chạy trốn, thầy đến nương náu với cha José María Urruchi Ortiz trong một gia đình thân quen. Được đánh giá là một tu sĩ cẩn trọng, thánh thiện và đáng tin cậy, ông đã dành thời gian cuối cùng của mình để cầu nguyện liên tục. Bị bắt và bị giết bởi dân quân cùng với Cha José María Urruchi Ortiz, thi thể của ngài được tìm thấy vào ngày 22 tháng 8 năm 1936 trên đường đến Andalusia.

10. Linh mục Antonio Girón González, sinh tại Ponferrada (León) vào ngày 11 tháng 12 năm 1871. Sau khi tuyên khấn vào ngày 15 tháng 8 năm 1889, ngài được truyền chức chức linh mục vào ngày 19 tháng 5 năm 1894. Ngài sống trong nhiều cộng đồng khác nhau, tham gia giảng dạy, đào tạo và làm ủy viên hội đồng tỉnh. Là một tu sĩ mẫu mực, với những tài năng trí tuệ đáng nể và đời sống nội tâm sâu sắc, ngài đã làm chứng đến cùng cho lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách thường xuyên đọc kinh Mân Côi. Vào thời điểm bắt đầu cuộc bức hại, ngài đang là thành viên của cộng đoàn Mẹ Hằng Cứu Giúp kể từ tháng Sáu. Sau khi ẩn náu đầu tiên trong một ngôi bí mật, sau đó trong một tu viện và cuối cùng trong một nhà tế bần, ngài đã bị phát hiện và bắt giữ bởi dân quân và họ đã giết ngài vào ngày 30 tháng 8 năm 1936.

11. Linh mục Donato Jiménez Viviano sinh ra ở Alaejos (Valladolid) vào ngày 21 tháng 3 năm 1873. Ngài tuyên khấn vào ngày 8 tháng 9 năm 1893 và được thụ phong linh mục ngày 27 tháng 5 năm 1899. Trong các cộng đồng khác nhau nơi ngài sống, hầu như ngài luôn đóng vai trò bề trên, mà không bỏ bê hoạt động truyền giáo và việc cổ vũ các ơn gọi sống tu trì. Ngài đã cư trú tại Madrid, trong cộng đồng của Tổng lãnh thiên thần St Michael, kể từ ngày 23 tháng 6 năm 1936, nhưng với cuộc đàn áp, ngài đón nhận sự che giấu nơi các gia đình thân quen. Bị bắt vào ngày 13 tháng 9, ngài bị bỏ tù và bị giết, có lẽ vào đêm 17 tháng 9 năm 1936.

12. Thầy Rafael (Máximo) Perea Pinedo, sinh tại Villalba de Losa (Burgos) vào ngày 24 tháng 10 năm 1903. Sau khi tuyên khấn vào ngày 27 tháng 2 năm 1926, ngài sống trong các cộng đoàn Astorga, Santander và cuối cùng là ở Madrid từ ngày 28 tháng 6 năm 1933. Thầy rất tốt bụng và vui vẻ, có tinh thần quảng đại phục vụ, làm khuân vác, quản lý Phòng thánh, phụ bếp và nấu ăn. Ngài rời nhà Dòng vào ngày 20 tháng 7 năm 1936 và tìm nơi ẩn náu đầu tiên với gia đình và bạn bè, sau đó tại một ngôi nhà trọ, nơi mà ngài bị bắt và bị giết vào ngày 2 tháng 11.

Theo Scalanews

Duc Trung Vu, CSsR