Chiến tranh Ukraine – Lịch sử có lặp lại?

Thế Chiến II kết thúc ngày 2-9-1945. Điều đó không có nghĩa là những năm sau đó không có bạo lực. Thực tế thì xung đột vẫn xảy ra hằng năm trong thế kỷ 20. Thế kỷ 21 chắc chắn đã theo sau. Sự liên tục của bạo lực dường như đặt ra câu hỏi: Liệu con người có thể thay đổi cách cư xử?

Theo Bảo tàng Chiến tranh Anh quốc, người ta ước tính rằng “187 triệu người đã chết do hậu quả của chiến tranh từ năm 1900 đến nay,” nhưng “con số thực tế có thể cao hơn nhiều.” Mặc dù vậy, và ngay cả khi số tử vong do chiến tranh gây ra lên đến đỉnh điểm trong chiến tranh Triều Tiên (đầu thập niên 1950), chiến tranh Việt Nam (khoảng năm 1970) và các cuộc chiến tranh Iran-Iraq và Afghanistan (thập niên 1980), con số tuyệt đối đã giảm từ năm 1946. Đúng vậy, danh sách các cuộc chiến tranh xảy ra từ năm 1945 đến 2021 có thể dường như vô tận. Chỉ trong thời kỳ đầu sau chiến tranh, khoảng nửa triệu người đã chết vì nạn bạo lực trực tiếp trong các cuộc chiến tranh. Nhưng ngược lại, năm 2016, số người chết liên quan chiến trận trong các cuộc xung đột liên quan ít nhất một bang (nghĩa là bao gồm cả các cuộc nội chiến) là 87.432 người. Hằng ngày vẫn là 239 người.

Có thể không thấy rõ bằng cách nhìn vào các con số, nhưng thành tựu chính trị lớn nhất của nhân loại kể từ khi Thế Chiến II kết thúc là sự suy tàn tương đối ổn định của chiến tranh. Giáo sư lịch sử tại Đại học Hebrew ở Giêrusalem, Harari, lưu ý rằng “trọng tâm của cuộc khủng hoảng Ukraine là vấn đề cơ bản về bản chất của lịch sử và nhân loại: liệu thay đổi có khả thi? Liệu con người có thể thay đổi cách họ cư xử, hay lịch sử lặp lại không ngừng, với việc con người mãi mãi bị lên án là tái hiện những bi kịch trong quá khứ mà không thay đổi bất cứ điều gì ngoại trừ cách trang trí mà thôi?”

VẤN ĐỀ TỒN TẠI

Tất nhiên, đây là những vấn đề triết học, nhân chủng học và tôn giáo cổ điển, giống như Kinh Thánh hoặc thánh ca và sử thi Homeric. Nhưng thực tế là chúng ta đã yêu cầu ít nhất 3.500 năm thì không có nghĩa là không đáng xem xét lại – đặc biệt khi xem xét rằng hầu hết các bài bình luận về cuộc xâm lược Ukraine của Nga bao gồm vô số tham chiếu đến năm 1939 (năm Thế Chiến II bắt đầu), không biết hiện nay chúng ta có đang chứng kiến sự bắt đầu của cuộc Thế Chiến III, như thể trong một vòng xoay giống như chiến tranh hay không.

Một số trường phái tư tưởng chỉ đơn giản là phủ nhận khả năng thay đổi. Chẳng hạn, những nhà tư tưởng lấy cảm hứng từ Hobbes hiểu rằng điều duy nhất ngăn cản kẻ mạnh tấn công kẻ yếu là một lực lượng chủ yếu, bao trùm sức mạnh (ví dụ: của nhà nước), vốn dự trữ cho mình quyền sử dụng bạo lực hợp pháp là vũ trang độc quyền. Tất nhiên, các trường phái khác lại nghĩ khác và cho rằng những quan hệ quyền lực này hoàn toàn có thể tránh được. Do con người tạo ra, chúng chắc chắn có thể bị xoắn, thay đổi hoặc loại bỏ hoàn toàn. Harari giải thích rằng “đã có nhiều thời kỳ [trong lịch sử loài người sơ khai] không có bằng chứng khảo cổ về chiến tranh.” Điều đó ngụ ý rằng, khác xa với sự thôi thúc tự nhiên của con người, chiến tranh thay vì phụ thuộc vào “các yếu tố công nghệ, kinh tế và văn hóa cơ bản. Khi những yếu tố này thay đổi, chiến tranh cũng đổi thay.”

“HÒA BÌNH” BỊ KỸ THUẬT ĐIỀU KHIỂN

Chính sự chuyển đổi công nghệ của chiến tranh đã làm cho thời kỳ sau chiến tranh tương đối “hòa bình” trở nên khả thi. Sự tồn tại tuyệt đối và sự sẵn có của vũ khí hủy diệt hàng loạt (chủ yếu là vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học) đã biến chiến tranh giữa các siêu cường “thành hành động tự sát tập thể điên cuồng.” Sức công phá chưa từng có của các kho vũ khí đương thời đã buộc các chính phủ phải sử dụng những cách ít bạo lực hơn để giải quyết xung đột – chủ yếu là các biện pháp trừng phạt kinh tế và ngoại giao. Kết quả là không có cuộc chiến trực tiếp giữa các siêu cường trong ít nhất 7 thập niên. Harari ghi nhận một cách đúng đắn về việc “hầu hết các chính phủ không còn coi chiến tranh xâm lược là một công cụ có thể chấp nhận được để thúc đẩy lợi ích của họ, và hầu hết các quốc gia ngừng ảo tưởng về việc chinh phục và thôn tính các nước láng giềng.”

Theo một cách nào đó, các nhà tư tưởng phái Hobbes có vẻ đúng phần nào: đó là mối đe dọa của một cường quốc lớn hơn (một cường quốc có thể gây ra sự hủy diệt hoàn toàn, sức mạnh mà một cuộc chiến tranh thế giới hạt nhân có thể gây ra) đã khiến chiến tranh không ngừng bùng phát. Thật vậy, các chính phủ trên thế giới chỉ chi 6,5% ngân sách cho các lực lượng vũ trang của họ – ít hơn những gì họ đã chi cho giáo dục, y tế hoặc phúc lợi trong vài thập kỷ qua.

Tóm lại, lập luận của Harari giải thích rằng sự suy tàn của chiến tranh “là do con người đưa ra những lựa chọn tốt hơn.” Chiến tranh quy mô lớn là điều không thể tránh khỏi, vì 70 năm qua đã chứng tỏ điều này. Nhưng thực tế là giai đoạn tương đối hòa bình này trong lịch sử nhân loại lại là kết quả của những quyết định do con người tạo ra, cũng ngụ ý rằng chúng ta có thể lựa chọn khác. Đó chính là lý do Nga chiếm đóng Ukraine, khiến tất cả chúng ta quan ngại. Harari nói: “Nếu việc các nước mạnh đánh bại các nước láng giềng yếu hơn của họ một lần nữa thì nó sẽ ảnh hưởng đến cách mọi người trên thế giới cảm nhận và hành xử. Kết quả đầu tiên và rõ ràng nhất sẽ là quân sự tăng mạnh bằng chi phí của mọi thứ khác.”

CHỌN ĐIÊN CUỒNG HOẶC KHÔNG

Trong buổi tiếp kiến chung vào ngày thứ Tư theo thông lệ, ngày 9-2-2022, ĐGH Phanxicô đã gọi khả năng xảy ra chiến tranh ở Ukraine là “sự điên rồ.” Đó không chỉ là một số lựa chọn từ ngữ ngẫu nhiên và chúng lặp lại cách hiểu của Harari về cuộc đụng độ giữa các siêu cường quốc là một “hành động tự sát tập thể điên cuồng.” ĐGH Phanxicô tuyên bố rõ ràng “Chiến tranh là sự điên rồ,” ủng hộ việc khắc phục căng thẳng và các mối đe dọa thông qua đối thoại đa phương nghiêm túc. Liệu hành động của Nga ở Ukraine có dẫn đến một cuộc xung đột quy mô lớn mới, năm 1939? Harari giải thích rằng, với tư cách là một sử gia, ông nói: “Tôi tin vào khả năng thay đổi. Tôi không nghĩ đó là sự ngây thơ, mà là chủ nghĩa hiện thực. Hằng số duy nhất của lịch sử loài người là SỰ THAY ĐỔI.”

Theo cách tương tự, trong số 79 của Thông điệp Laudato Si, Đức Phanxicô nói rõ rằng ý chí tự do, năng lực của con người để quyết định, lựa chọn và thay đổi “là điều tạo nên sự phấn khích và kịch tính của lịch sử nhân loại, trong đó tự do, phát triển, sự cứu rỗi và tình yêu có thể nảy nở, hoặc dẫn đến sự suy đồi và hủy diệt lẫn nhau. Công việc của Giáo Hội không chỉ nhằm nhắc nhở mọi người về bổn phận chăm sóc thiên nhiên, mà trên hết là Giáo Hội phải bảo vệ nhân loại khỏi sự tự hủy diệt.” Phản đối ý tưởng về sự trở lại không thể tránh khỏi và vĩnh viễn của chiến tranh là lập trường hợp lý và trung thành với các sự kiện thời sự.

DANIEL ESPARZA

TRẦM THIÊN THU (theo Aleteia.org)