Lòng tôn sùng thánh Giuse Trong Hội Thánh

Dù lòng tôn sùng thánh Giuse trong Hội Thánh khá trễ. Tuy nhiên, như một dòng thác từ lâu bị ngăn chặn, một khi được khai thông, nó bất chấp mọi trở ngại, nhưng cuốn phăng tất cả theo nó dữ dội…

Cũng vậy, một khi tấm gương của thánh Giuse đã được đề cao, thì mọi tâm hồn, mọi suy tư đều đổ dồn về. Thánh Giuse trở nên vị thánh chiếm vị trí quan trọng trong lòng tín hữu Công giáo.

Những thế kỷ đầu.

Lòng tôn kính thánh Giuse hầu như không được đề cập đến. Lúc đó, Hội Thánh thờ kính đặc biệt Ngôi Hai Thiên Chúa. Bên cạnh, Hội Thánh nhắc đến Đức Trinh Nữ Maria, vì Người là Mẹ của Đấng Thiên Chúa làm người. Trong thời bắt đạo bởi các hoàng đế Lamã, Hội Thánh còn tôn kính đặc biệt các thánh Tử đạo.

Thật ra, những việc tôn kính như trên không có gì khó hiểu. Bởi thời kỳ đầu, phải đối diện với quá nhiều thách đố mang tính hộ giáo, đồng thời phải luôn luôn củng cố Thiên tính đi liền với nhân tính của Chúa Giêsu, mà Hội Thánh luôn đề cao vai trò của Ngôi Hai Thiên Chúa, đề cao sự đồng trinh nhiệm mầu của Đức Maria. Và vì cơn bắt đạo ngày càng dữ dội, điều quan trọng lúc này là củng cố đức tin cho các Kitô hữu mà Hội Thánh đề cao việc tôn kính các anh hùng Tử đạo. Vai trò của thánh Giuse hầu như bị bỏ quên.

Tuy nhiên, một vài thế kỷ tiếp theo, có nhiều Giáo Phụ như Gioan Kim Khẩu, Giêrônimô, Augutinô hết lời ca ngợi thánh Giuse và ơn gọi nhiệm lạ một cách đặc biệt mà Chúa dành cho thánh Giuse trong các bài giảng hoặc trong vài tác phẩm.

Lòng mến thánh Giuse bắt đầu.

Thế kỷ XII là thế kỷ đánh dấu sự thăng tiến về lòng yêu mến thánh Giuse trong Hội Thánh. Từ 1153, thánh Bênađô, đã có những bài giảng về thánh Giuse. Có những bài giảng rất hùng hồn, ngài đề cao vai trò của thánh Giuse trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Ngoài ra, thánh Bênađô không tiếc lời tuyên dương những vinh hiển và nhân đức của thánh Giuse. Bên cạnh đó, dòng Ðaminh với thánh Tôma tiến sĩ (1274), dòng Phanxicô cũng góp phần lớn, gây ảnh hưởng và cổ võ phong trào sùng kính thánh Giuse.

Thế kỷ XV, và năm 1416, tại Công Đồng Constantinô, Gerson, linh mục và thần học gia đã có bài tham luận thật sâu sắc ca ngợi và nêu gương thánh Giuse cho mọi người. Ngay tại Công Đồng, ông còn đề nghị lập lễ kính thánh Giuse, để xin ơn bình an cho Hội Thánh, bởi lúc đó, Hội Thánh đang khủng hoảng và chia rẻ trầm trọng.

Cùng thời điểm này, Hồng y Phêrô Ailly xuất bản cuốn sách “Những vinh hiển và đặc ân của Thánh Giuse” để tôn vinh những kỳ công mà Chúa đã thực hiện trên con người và đời sống của thánh Giuse. Kể từ đó, lễ thánh Giuse bắt đầu thịnh hành trong khắp Âu Châu. Người ta bắt đầu xây nhiều nhà thờ dâng kính thánh Giuse.

Thế kỷ XVI, vào khoảng năm 1528, thánh Têrêsa Giêsu, tiến sĩ Hội Thánh, trong khi cải tổ dòng Cát Minh, đã kêu gọi các đan sĩ hãy nhiệt tình tôn kính thánh Giuse. Thánh nữ đã dâng kính thánh Giuse hầu hết các đan viện do chính thánh nữ sáng lập. Ngoài sự kêu gọi, qua việc giảng dạy bằng lời, thánh Têrêsa còn viết sách cổ võ sự sùng kính thánh Giuse. Với tất cả những việc làm và lòng tin tưởng, lòng yêu mến dành cho thánh Giuse, thánh nữ Têrêsa xứng đáng được gọi là tông đồ số một của thánh Giuse.

Thế Kỷ XVII, việc tôn kính thánh Giuse đã phổ biến, và càng ngày càng tiến xa. Nhất là tại Áo quốc, năm 1677, vua Leopolđô I (1640-1705) đặt thánh Giuse làm Đấng bảo trợ quốc gia và xin phép Ðức Giáo hoàng cho lập lễ Hôn phối thánh Giuse và Ðức Mẹ, vì ông muốn cảm tạ thánh Giuse đã cứu thủ đô Vienna khỏi quân Thổ nhĩ kỳ đánh phá.

Hơn nữa, ông còn tin rằng, thánh Giuse đã cho ông sinh được một người con nối dòng là vua Giuse I. Bởi lúc đó, thượng vị Lêôpolđô I lên làm vua nước Áo, đã 40 tuổi mà chưa có con. Trong nhiều năm, nhà vua đặt hết tin tưởng vào thánh Giuse. Ông sốt sắng cầu khẩn thánh Giuse ban cho ông có con.

Ðể chứng tỏ lòng trông cậy, vua ra chiếu chỉ tôn thánh Giuse làm Ðấng bảo trợ các vua nước Áo. Ông truyền đúc tượng thánh Giuse bằng bạc. Ông xin các linh mục dâng thánh lễ và tổ chức rước kiệu kính thánh Giuse đủ tám ngày.

Sau chín tháng, hoàng hậu sinh hạ một con trai, nhà vua rất đỗi vui mừng. Ðể nhớ ơn thánh Giuse, nhà vua truyền đặt tên thái tử là Giuse và hứa đúc một tượng thánh Giuse bằng bạc lớn hơn lần trước, đặt tại quảng trường thành phố Vienna, để mọi người qua lại đều có thể tôn kính thánh Giuse.

Tuy nhiên, Leopolđô I băng hà khi chưa kịp thi hành lời hứa cùng thánh Giuse. Con trai duy nhất của ông là vua Giuse I (1678-1711) ý thức lời cha dặn, nhất là biết mình được sinh hạ nhờ ơn thánh Giuse, hơn nữa bản thân cũng chọn thánh Giuse làm bổn mạng, đã thay cha, truyền đúc tượng thánh Giuse rất lớn bằng bạc, xây bệ cao và cử hành nghi lễ đặt tượng giữa kinh đô ngay chính ngày lễ thánh Giuse năm 1709.

Tại pháp năm 1704, Giám mục Bossuet đọc một bài diễn văn thời danh tán dương thánh Giuse, gây ảnh hưởng lớn đến nỗi Ðức Urbanô VIII đã nâng lễ thánh Giuse lên bậc lễ buộc trong nước Pháp.

Đến thế kỷ XIX, lòng yêu mến thánh Giuse trong cả Hội Thánh lên đến đỉnh điểm. Năm 1870, Ðức Piô IX, thể theo đề nghị của hàng giám mục thế giới, trong lúc họp Công Ðồng Vatican I, long trọng tôn phong thánh Giuse làm Ðấng bảo trợ toàn thể Hội Thánh và truyền mừng lễ kính thánh Giuse vào ngày 19.3 hàng năm ở bậc trọng thể.

Năm 1889, Ðức Lêo XIII ban hành thông điệp “Thánh Cả Giuse, bạn trăm năm Ðức Mẹ và Cha Chúa Giêsu” đã trở thành thông điệp thời danh, đáng gọi là Hiến chương thần học tuyên dương sự vinh hiển của Thánh Giuse. Trong thông điệp, Đức Thánh Cha ra lệnh, phải tôn kính thánh Giuse vào mỗi tháng 3 hàng năm.

Từ đó tới nay, lòng sùng kính thánh Giuse lan tràn khắp nơi. Ngài trở thành vị thánh thứ hai, sau ÐứcTrinh Nữ Maria, được cả Hội Thánh và từng con cái Hội Thánh yêu mến, kính tôn và khẩn cầu.

Tại Việt Nam.

Ngay từ thời gian đầu, khi Tin Mừng mới được rao giảng, Hội Thánh Việt Nam đã sớm tỏ lòng tôn kính thánh Giuse. Rất nhiều người, trong đó, đại đa số nam giới chọn thánh Giuse làm bổn mạng. Nhiều nhà thờ, nhà dòng được đặt dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Hầu như trong tất cả các nhà thờ đều có bàn thờ thánh Giuse. Nhiều nhà thờ còn xây đài kính thánh Giuse trong khuôn viên nhà thờ để giáo dân tiện việc tôn kính và cầu nguyện cùng thánh Giuse.

Ngay từ thế kỷ thứ XVII, năm 1678, Ðức Inôxentiô XI, theo đề nghị của các Giám mục truyền giáo phương Ðông, đã phong thánh Giuse làm thánh bảo trợ nước Việt Nam và các nước lân cận. Chính cha Đắc Lộ, người tiên phong trong việc chọn thánh Giuse làm bổn mạng Hội Thánh Việt Nam.

Cha Ðắc Lộ thuật lại một câu chuyện về thánh Giuse như sau: “Ngày 12.3.1627, lễ Thánh Gregoriô, tôi và thầy Antôn Marques xuống tàu tại Áomôn để sang Ðàng Ngoài. Chúng tôi vượt biển, thuận buồm xuôi gió cho tới chiều ngày thứ bảy. Khi chuẩn bị vào cửa biển ở Thanh Hóa, bỗng dưng bão nổi lên với nhiều hình quái dị khiến mọi người kinh hãi. Nhưng qua hôm sau là lễ thánh Giuse thì biển yên sóng lặng, hình quái gở đã biến đi, nên chúng tôi vào cửa biển bình an. Cửa ấy, dân địa phương gọi là cửa Bạng (Thanh Hóa), nhưng chúng tôi đặt tên là Cửa thánh Giuse, hầu kính nhớ ơn ngài đã phù hộ chúng tôi tới đó bình an”. 

“Hãy đến cùng Giuse”, đến cùng Cha chúng ta.

Tuy không rõ ràng, nhưng nhiều người đồng ý, thánh Giuse của Tân Ước đã được báo trước ngay từ những trang đầu của Cựu Ước (sách Sáng thế), qua hình tượng tổ phụ Giuse con của tổ phụ Giacob.

Có thể nói, tổ phụ Giuse là hình bóng của thánh Giuse, trước hết là tên gọi:

– Người con áp út của tổ phụ Giacob và người bạn trăm năm của Ðức Maria, có cùng một tên gọi: GIUSE.

– Tổ phụ Giuse, sau khi bị bán sang Aicập, nhờ ơn Chúa, đã nhanh chóng được đẹp lòng vua Putiphar. Nhà vua đã tín cẩn, trao cho tổ phụ coi sóc, lo liệu mọi việc cần thiết. Sau đó, chính nhà vua đã cất nhắc tổ phụ làm quan tể tướng triều đình của mình. Vua ban cho tổ phụ mọi quyền hành phù hợp để lo việc thu trữ lúa thóc và phân phát cho toàn dân Aicập và các vùng lân cận. Sau cùng, nhà vua còn ban danh hiệu quý giá cho tổ phụ, đó là danh hiệu: Vị Cứu tinh của nhân dân (x.St 41, 1tt).

Chức vụ và quyền hành mà vua Aicập ban cho tổ phụ Giuse ảnh hưởng trên toàn quốc gia Aicập, là hình bóng chỉ quyền cao, chức trọng Thiên Chúa đã ban cho Thánh Giuse để ngài giữ gìn, chở che Hội Thánh, đoàn dân mới của Chúa trên khắp hoàn cầu.

– Tổ phụ Giuse còn là hình bóng của thánh Giuse, vì ông còn là con người khéo léo, biết lo liệu mọi việc. Sự khôn ngoan khéo léo này thể hiện qua việc ông vừa sinh nhiều lợi ích cho chủ mình, vừa cứu dân thoát chết.

Cũng vậy, thánh Giuse được Chúa tuyển chọn để gìn giữ Nguồn Sống của cả nhân loại là chính Chúa Giêsu. Thánh Giuse còn được chọn làm Bổn mạng bênh vực Hội Thánh, hướng dẫn và lèo lái con thuyền Hội Thánh, nhất là trong những lúc Hội Thánh đối diện với thử thách.

– Một lệnh truyền nổi tiếng mà vua Aicập ban ra để dạy dân Aicập, được Hội Thánh sử dụng để dạy con cái mình: “Hãy đến cùng Giuse” (St 41, 55) là một bằng chứng hùng hồn, cho thấy, Hội Thánh nhìn nhận tổ phụ Giuse là hình ảnh tiên báo thánh Giuse.

Với lệnh truyền này, Pharaô Putiphar đã đặt mọi quyền lực vào tay tổ phụ, thì khi dạy con cái mình hãy đến cùng thánh Giuse, Hội Thánh muốn khẳng định rằng: thánh Giuse có thế giá trong quyền lực bàu chữa cho chúng ta.

Thánh Giuse bồng Chúa Giêsu, vì người là cha của Chúa. Thánh Giuse cũng muốn chúng ta, một khi là con của người, hãy sà vào lòng người để được người săn sóc, băng bó, vỗi về, bảo vệ…

Hãy chạy đến thánh Giuse. Hãy đến cùng thánh Giuse. Hãy gắn mình vào lời cầu nguyện cả đời của chúng ta để nài xin thánh Giuse che chở, khẩn cầu.

Trong kinh Khấn thánh Giuse bảo trợ, tuy nói quá đáng về vai trò của thánh Giuse: “Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời đến nổi người ta có thể nói rằng: ‘Trên trời Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin’”, dễ làm chúng ta lầm tưởng, thánh Giuse có quyền lực tối thượng nơi thiên đàng.

Tuy nhiên, lời kinh vẫn phản ánh một thực tế: Hiệu lực trong lời chuyển cầu của thánh Giuse dành cho đoàn con trần thế của mình là vô song.

Hãy cậy vào công nghiệp của thánh Giuse trước mặt Chúa. Hãy cậy vào nhân đức của thánh Giuse. Hãy cậy vào lời chuyển cầu thế lực mà thánh Giuse được Chúa ban. Chúng ta hãy đến cùng thánh Giuse. Hãy nguyện xin thánh Giuse đồng hành với chúng ta trọn cuộc đời, để từng nhịp sống của chúng ta, luôn có thánh Giuse yểm trợ, lèo lái, đỡ nâng.

Mỗi khi chạm phải những thách đố cho cuộc đời hay cho đức tin của mình, chúng ta hãy “trao phó nơi Cha vụ khó khăn này… Xin Cha giải gở giúp chúng con, để thêm một vinh quang mới vào bao nhiêu vinh quang sẵn có của Cha” (kinh Khấn thánh Giuse bảo trợ).

Xin thánh Giuse hãy thương nhận lấy chúng ta như đã bao dung nhận lấy trách nhiệm làm cha của Chúa Giêsu.

Chúng ta đừng bao giờ ngần ngại, nhưng hãy đến cùng thánh Giuse.

CÙNG VỚI CHÚA GIÊSU, THÁNH GIUSE LÀ CHA CHÚNG TA

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông huấn Đấng trông nom Chúa Cứu Thế dạy: “Chúng ta hãy phó thác chính mình để được Thánh Giuse chăm sóc, người mà Thiên Chúa tin tưởng phó thác những kho tàng vĩ đại và quí báu nhất, đồng thời hãy học hỏi nơi Người cách làm đầy tớ phục vụ trong nhiệm cục cứu rỗi. Mong Thánh Giuse trở thành người thầy đặc biệt dạy chúng ta phục vụ sứ mạng cứu rỗi của Chúa Kitô, một sứ mạng mà mỗi người chúng ta và mỗi thành viên của Giáo Hội đều có trách nhiệm: vợ, chồng, cha mẹ, những người sinh sống bằng lao động chân tay hay bất cứ công việc gì, những người được gọi vào đời sống chiêm niệm và những ai làm việc tông đồ” (số 32).

Vâng lời vị Cha chung, chúng ta tìm những lý lẽ thích hợp nhất, giúp chúng ta noi gương đời sống thánh Giuse mà sống đẹp lòng Chúa, xứng danh là người được Chúa Kitô cứu chuộc.

Chúa Giêsu gọi thánh Giuse là Cha.

Một trong các lời kinh dâng kính thánh Giuse được Hội Thánh tuyên xưng: “Dưới dòng họ của Ngài (thánh Giuse), Con Thiên Chúa làm người thuộc hoàng tộc Đavit đã âu yếm gọi Ngài là Cha”.

Ngay trang đầu tiên của Tin Mừng, “Gia phả của Chúa Giêsu”, thánh Mathêô khéo léo cho thấy Chúa Giêsu là “con” của thánh Giuse: “Giacob sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1, 16).

Bởi thánh Giuse chỉ là người được chỉ định dưỡng nuôi Chúa Giêsu, thánh Mathêô “đành” phải “rẽ ngang” gia phả để nhắc đến Đức Mẹ và gọi Đức Mẹ là “mẹ Đức Giêsu”. Sự khéo léo này như ám chỉ: Chúa Giêsu không được sinh ra từ thánh Giuse, nhưng vẫn là dưỡng tử của thánh Giuse, mang danh dòng họ thánh Giuse. Ngay từ thuở thiếu thời, Chúa Giêsu đã được thánh Giuse thương yêu như người con của mình.

Ngay cách đặt tên cho phần đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Mathêô: “Gia phả Đức Giêsu Kitô”, Hội Thánh cũng đã kín đáo nhìn nhận Chúa Giêsu chọn cho mình một dòng tộc, một người cha, một mái gia đình để sinh ra làm người.

Kể từ đó, Tin Mừng không ngừng nhắc đi nhắc lại vai trò làm con của thánh Giuse, thuộc dòng tộc Đavit, mà Chúa Giêsu đảm nhận: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Mt 13,55; Lc 3,23; 4, 22). “Con vua David” (Mt 9, 27; 21, 9; Mc 12, 35).Chúa Giêsu đã không bao giờ hổ thẹn vì những lời mà người đương thời của Chúa gán cho: Con của bác thợ mộc Giuse.

Truyền thống Hội Thánh vẫn tin rằng, thánh Giuse được Chúa thánh hóa trước khi sinh ra, vì Chúa đã chọn thánh nhân làm cha nuôi của Con Chúa. Bởi: “Khi Thiên Chúa muốn tuyển chọn ai, để nhận lãnh một ơn gọi đặc biệt, hoặc một chức phận cao sang, Chúa luôn ban những ân sủng cần thiết cho người được tuyển chọn để thi hành ơn gọi hay sống chức vụ của mình. Ân sủng của Chúa sẽ tô điểm rất đầy đủ cho người được tuyển chọn ấy” (thánh Bênađô thành Siêna, sách đã dẫn trang 124).

Hội Thánh tin như thế, vì điều đó không đi ngược những gì Thánh Kinh đã cho biết về thánh Giuse. Bởi địa vị của thánh Giuse quá cao trọng: Người được coi là cha của Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Người là bạn của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Từ đời đời, Thiên Chúa đã tuyển chọn thánh Giuse làm dưỡng phụ của Chúa Giêsu. Người là Đấng gìn giữ Con Thiên Chúa và gìn giữ gia đình thánh tại Nagiareth. Chúa Giêsu là cả kho tàng ơn cứu độ loài người, vì thế, hiểu một nghĩa hạn hẹp nào đó, khi gìn giữ Chúa Giêsu, thánh Giuse cũng là Đấng bảo hộ kho tàng ơn cứu rỗi của chúng ta.

Dù quyền cao chức trọng là thế, nhưng thánh Giuse lại sống âm thầm, giản dị, không khoe khoang, nhưng khiêm nhường rất mực. Đặc biệt, thánh nhân đề cao đức vâng lời trong suốt đời mình. Một lòng vâng theo thánh ý Chúa đến cùng.

Qua tất cả những lần Thánh Kinh đề cập như: đón nhận Đức Trinh Nữ làm bạn trăm năm của mình (x.Mt 1, 18-25); đưa con trốn sang Aicập và lại đưa con trở về sau khi nguy hiểm đi qua (x.Mt 2, 13-23); khi con cử hành nghi lễ cắt bì (x.Lc 2, 21); dâng con trong đền thờ (x.Lc 2, 22-38); tìm và gặp trong đền thờ (x.Lc 2, 41-49)… cho thấy đức vâng lời của thánh Giuse là một nhân đức tuyệt hảo, đáng là chuẩn mực cho sự vâng lời của chúng ta.

Chúng ta không biết ngày qua đời của thánh Giuse. Có lẽ thánh nhân qua đời trước cuộc thương khó của Chúa Giêsu, vì nếu không, thánh Giuse, một người cha đầy từ tâm, lân tuất, chắc chắn đã hiện diện, đã được Tin Mừng nhắc đến trong biến cố đau thương này. Và nếu có thánh Giuse bên cạnh, có lẽ Chúa không trối Đức Maria cho thánh Gioan (?).

 TRONG CHÚA GIÊSU CHÚNG TA LÀ CON THÁNH GIUSE

Nếu Chúa Giêsu là con của thánh Giuse, thì trong Chúa Giêsu, Đấng đã nhận chúng ta như đàn em của Người, chúng ta cũng danh dự được làm con của thánh Giuse.

Không phải vô cớ mà nhiều vùng đất, nhiều cơ sở, nhiều giáo phận, cả Hội Thánh hoàn vũ, nhiều nhà thờ, nhiều cộng đoàn, nhiều cá nhân… chọn thánh Giuse là bổn mạng. Bởi thánh Giuse đúng thật là người cha đầy tinh thần trách nhiệm, không chỉ vì những công trình trần thế mà thánh nhân luôn gìn giữ, nhưng còn vì lời chuyển cầu hiệu quả mà thánh nhân dâng lên trước tòa Chúa đêm ngày, để đoàn con của mình luôn sống trong tình yêu cứu độ của Chúa.

Thánh nhân làm tròn trách nhiệm một người cha, luôn ân cần, tận tụy bảo vệ, chăm sóc đoàn con của mình. Chúng ta, không chỉ tin, mà còn cảm nhận mạnh mẽ, sâu sắc tình yêu của thánh Giuse dành cho từng người, không sót một ai, là tình yêu đại lượng của người cha thánh thiện, luôn dành mọi tâm huyết cho từng người con, miễn là những đứa con ấy, cuối cùng đạt đến bến bờ hạnh phúc.

Trong sách “100 Tích lạ về thánh Giuse” (Lm. Châu Vị Thủy), càng là bằng chứng cho thấy sự bảo trợ của thánh Giuse thật hiệu quả, đến nỗi đoàn con trần thế không ngần ngại đặt vào tay thánh Giuse mọi công trình, cuộc đời mình cách tin tưởng, tín nhiệm.

Một trong 100 tích ấy là truyện “28. Cái mốc đầu tiên”, tác giả kể lại chính kinh nghiệm của mình: “Tháng 6 năm 1954, trên đường vào Nam, tôi qua Quảng-yên đến thăm nhà bác Phạm Thanh Ngạc, người bạn thân cùng làng. Thấy gia đình có vẻ buồn bã, vì đã có năm con gái mà chưa có con trai, nhất là Bác lại còn là trưởng tộc. Tôi bèn khuyên cả nhà cầu khẩn Thánh Giuse, và hôm sau là thứ Tư, tôi làm lễ khấn Ngài tại nhà thờ Quảng yên.

Rồi gia đình đi vào Nam. Chín tháng sau, ngày 7 tháng 3 năm 1955, bà vợ sinh ra một bé trai, đưa đến để tôi rửa tội tại Chí hòa, đặt tên là Giuse Phạm Thanh Nghị. Em này khỏe mạnh, thông minh, học giỏi, nết na, hiện làm kỹ sư tại Toronto, Canada.

Đó là cái mốc đầu tiên trên đường đi lên của tôi đối với Thánh Cả. Từ đó đến nay, những vợ chồng hiếm muộn không con, hoặc có gái không trai, hoặc có trai không gái, đến xin khấn, phần nhiều đã được toại nguyện. Có đến bốn trăm trường hợp được ơn”…

Nhờ công nghiệp và sự chuyển cầu hiệu quả, thánh Giuse đã làm cho gia nghiệp của Chúa Giêsu, là cả Hội Thánh nói chung, và mỗi chúng ta nói riêng, ngày càng trở nên xinh tươi, trổ sinh hoa trái thánh thiện, dày sự bền đổ trong ơn gọi mà Chúa trao cho từng người chúng ta.

Chiêm ngắm cuộc đời và gương sống của thánh Giuse, người cha dấu ái của chúng ta, chúng ta rút ra nhiều bài học quý giá:

– Thánh Giuse dạy ta sống trọn niềm tin tưởng và phó thác cho Chúa bằng một tình yêu toàn vẹn, không gợn chút nghi nan.

– Thánh Giuse dạy ta biết khiêm nhường, biết yêu đời sống thanh vắng để tìm khám phá thánh ý Chúa.

– Thánh Giuse dạy ta tìm sống thinh lặng, sống ẩn mình, sống thanh bần trong niềm bình an nhằm đón nhận tất cả mọi biến cố, mọi cảnh huống rơi vào giữa đời mình, gia đình mình.

– Thánh Giuse còn dạy ta yêu mến Chúa bằng hiến dâng trái tim, linh hồn, cuộc đời để sống lòng yêu mến dành cho Chúa từng phút giây, trọn kiếp sống của mình…

Thánh Giuse còn dạy ta nhiều bài học. Mỗi một người, khi chân thành chiêm ngắm thánh Giuse, đều có thể rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm sống với Chúa và sống với con người.

 Thánh Giuse Yêu Chúng Ta, Vì Chúng Ta Là Con Của Người …

Trong một chia sẻ của mình, Đức Cha Bùi Tuần chia sẻ cảm nghiệm với thánh Giuse đơn sơ, gần gũi, mang đấy chất yêu của một người con biết cha yêu mình. Đức Cha viết:

“… Tôi nhớ tới một lời cầu, mà những năm trước đây, tôi hay nói với Thánh Giuse. Tôi cầu xin thế này: “Tháng Ba là thánh kính Thánh Giuse. Con hơi sợ tháng đó. Bởi vì kinh nghiệm cho con thấy: trong nhiều tháng Ba của đời con, đã có những biến cố xảy ra khiến phải mất người mất của. Con hiểu là những gì đã xảy ra đó đều có mục đích dạy con về sự từ bỏ cần có trong tình yêu cứu độ. Con hiểu, nhưng con sợ. Xin Thánh Giuse thương giúp con”.

Hôm nay, tôi cũng nói lại với Thánh Giuse lời cầu trên đây.

Tôi tin Thánh Giuse là người được Chúa sai vào lịch sử, để làm chứng cho tình yêu Chúa. Ngài đã là một chứng nhân đích thực, ngay chính ở sự Ngài đã rất âm thầm khiêm tốn và từ bỏ mình, hết mình vâng phục thánh ý Chúa.

Xin Thánh Giuse thương cầu xin cho tôi cũng được là nhân chứng như Ngài. Tôi rất yếu đuối hèn mọn, mỗi ngày như bắt đầu lại hướng đi tình yêu. Bắt đầu, rồi lại bắt đầu lại. Chỉ vì yếu đuối. Nhưng trong sự yếu đuối ấy tôi đã gặp được Chúa là tình yêu thương xót. Thánh Giuse đã dạy tôi từng bước nhỏ. Xin cảm tạ Ngài. Trong tay Ngài, tôi phục vụ Hội Thánh và Quê Hương yêu dấu của tôi…”.

Chúng ta hãy đơn sơ như Đức Cha Bùi Tuần, đặt vào tay thánh Giuse muôn ngàn chìm nổi hằng diễn ra trong hành trình đời mình. Chúng ta ngã mình vào tình yêu của thánh Giuse như đứa con trong tay cha nó.

Cuộc đời chúng ta có nhiều gánh nặng, nhiều đổ vỡ. Ngước nhìn tình yêu của thánh Giuse dành cho chúng ta, người nhìn sức chịu đựng mà một đời dâu bể, thánh Giuse đã trải qua, ngước nhìn lòng trung thành yêu mến Chúa dẫu đầy những gập ghềnh chắn lối, chúng ta biết thánh Giuse hiểu mọi vui-buồn-sướng-khổ trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta biết thánh Giuse luôn âm thầm lo lắng quan tâm bằng sự chuyển cầu hiệu quả để chúng ta vượt thắng như chính thánh Giuse đã vượt thắng.

Có người cha nào vui khi con bất hạnh? Có người cha nào không hạnh phúc khi con hạnh phúc? Cuộc đời của chúng ta là một chuỗi dài những vui buồn cộng lại. Chúng ta yên tâm. Chắc chắn thánh Giuse thông chia không sót một nỗi niềm nào. Lòng cha bao giờ mà chẳng ngút ngàn ví như biển, sánh như trời! Hai tiếng “lòng cha”, đủ cho chúng ta niềm ấm áp. Bởi người là cha, chúng ta là con. Người vô cùng đau, khi chúng ta đau. Người vỡ òa hạnh phúc khi chúng ta hạnh phúc.

Tất cả những chịu đựng mà một đời trần thế, thánh Giuse đã đi qua là để thánh nhân gần chúng ta. Càng hiểu cuộc đời, càng nếm trải đau khổ, càng thấu biết niềm vui, thánh nhân càng chia sẻ, và chuyển cầu cho con mình thật nhiều, thật hiệu quả, thật bền bỉ.

Trên hết, tất cả những trải nghiệm trong cuộc đời, là để thánh Giuse ngày càng tỏ ra là người cha đối với những đứa con hằng mong sự ấp ủ, vỗ về. Thánh Giuse là cha của niềm an ủi. Thánh Giuse là cha của nguồn cậy trông. Thánh Giuse là cha của lòng nhân hậu. Thánh Giuse là cha của lòng yêu thương lặng lẽ nhưng hiệu quả.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.