Toà Thánh kêu gọi thúc đẩy tiến trình phong thánh cho Đức Hồng y Văn Thuận

“Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận gặp Thánh Têrêsa Calcutta trong chuyến viếng thăm Việt Nam lần đầu tiên của Mẹ trên cương vị Bề trên Tổng quyền Dòng Thừa Sai Bác Ái, năm 1991.”

Việc phong Chân phước cho Đấng Đáng Kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đang được Toà Thánh quan tâm cách đặc biệt, đúng 50 năm sau khi ngài bị chính quyền cộng sản Việt Nam giam cầm lần đầu, theo chia sẻ của người em gái.

Bà Elisabeth Nguyễn Thị Thu Hồng, em út và cũng là người thân ruột thịt cuối cùng còn sống của Đức Hồng y, cho biết Bộ Phong Thánh đang khuyến khích các tín hữu gia tăng lời cầu nguyện và nỗ lực cổ võ tiến trình phong thánh. Bộ cũng vừa chính thức mở một trang web mới dành riêng cho Đức Hồng y người Việt Nam, người đã để lại những suy tư sâu sắc về niềm hy vọng và tha thứ, khích lệ các tín hữu Công giáo suốt nhiều thập kỷ.

“Bước kế tiếp trong tiến trình phong thánh là nhờ nơi các tín hữu… cầu xin Thiên Chúa ban một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của ngài,” bà Hồng chia sẻ trong chuyến viếng thăm Rôma tuần này.

“Đức Hồng y Văn Thuận chụp hình cùng gia đình – gồm em ruột, cháu trai và cháu gái – trong lễ tấn phong Hồng y tại Rôma năm 2001. Người em út, bà Elisabeth Nguyễn, đứng ở góc phải phía dưới.”

Một viên chức của Bộ Phong Thánh cũng xác nhận rằng hồ sơ phong thánh cho Đức Hồng y Văn Thuận vẫn đang được tiến hành, và nhấn mạnh tầm quan trọng của một phép lạ được chuẩn nhận để tiến trình có thể tiến xa hơn.

Đức Văn Thuận được tuyên phong là “Đấng Đáng Kính” vào năm 2017, tức bước ngay trước khi được phong Chân phước. Ngài từng bị cầm tù bởi chính quyền cộng sản Việt Nam trong 13 năm, trong đó có 9 năm biệt giam. Những thông điệp thiêng liêng ngài bí mật gửi ra trong thời gian tù đã được tập hợp và xuất bản trong tác phẩm “Đường Hy Vọng: Tin Mừng từ ngục tù.”

Sau khi được trả tự do, ngài buộc phải sống lưu vong, và những năm cuối đời đã phục vụ tại Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình ở Rôma. Năm 2001, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã vinh thăng ngài lên hàng Hồng y.

Không lâu sau đó, ngài được chẩn đoán mắc bệnh ung thư dạ dày giai đoạn cuối. Nhưng bốn tháng trước khi về với Chúa ngày 16 tháng 9 năm 2002, Đức Hồng y đã kịp trở lại Úc để mừng sinh nhật 100 tuổi của thân mẫu, như một lần hội ngộ cuối cùng cùng gia đình.

Nhân chứng của niềm hy vọng nơi Thiên Chúa

Bà Hồng, em út trong chín anh chị em của Đức Hồng y, đã viết về chứng tá đức tin của người anh trong cuốn “Cardinal Nguyen Van Thuan: Man of Joy and Hope” (Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận: Người của niềm vui và hy vọng), đồng tác giả cùng cha Stefaan Lecleir, do Ignatius Press ấn hành vào tháng 4 vừa qua.

Sau khi hoàn tất cuốn sách, bà chia sẻ rằng mình vui mừng được góp phần làm rạng danh Thiên Chúa qua việc thuật lại cuộc đời người anh:
“Đặc biệt trong thời đại hôm nay, khi xã hội tràn ngập sự giận dữ và thiếu tha thứ… tôi đã quyết định cùng cha Lecleir viết về sứ điệp của anh tôi: đó chính là tha thứ và hy vọng nơi Thiên Chúa, nhờ tình yêu của Người.”

Ngày 16 tháng 9 vừa qua, bà đã tham dự Thánh lễ tại mộ phần của Đức Hồng y trong Vương cung Thánh đường Santa Maria della Scala ở Rôma, kỷ niệm ngày ngài qua đời. Thánh lễ này cũng đồng thời tưởng niệm 50 năm ngày ngài bị bắt và thời gian sáng tác những thông điệp thiêng liêng được ghi lại trong “Đường Hy Vọng” – vốn được gợi nhớ qua một bức ảnh mới được phát hiện gần đây chụp ngài đang viết trong thời gian bị quản thúc tại gia năm 1975.

Bức ảnh ấy được một người phục vụ trong căn nhà nơi Đức cha Văn Thuận bị quản thúc chụp lại. Một người bạn của bà Hồng tình cờ tìm thấy nó treo trên tường bếp của một gia đình tại Việt Nam.

“Bức ảnh mới được tìm thấy tại Việt Nam cho thấy Đức cha Văn Thuận đang ngồi viết tại bàn trong thời gian bị quản thúc năm 1975. Ảnh: Elisabeth Nguyễn cung cấp.”

“Người cha nhỏ”

Bà Hồng, khi Đức Văn Thuận chịu chức linh mục thì vẫn còn là một em bé, kể lại rằng đối với bà, ngài không chỉ là một người anh, mà “giống như một người cha nhỏ.”

Bà chia sẻ nhiều kỷ niệm về người anh cả, trong đó có ảnh hưởng từ những lá thư bí mật của ngài đến hành trình đức tin của bà.

“Trong một thời gian dài, tôi không muốn viết gì về anh Văn Thuận, vì điều đó khiến tôi phải trở lại với những ký ức đen tối,” bà tâm sự.

Bà nhớ lại, Đức Hồng y là người con rất hiếu thảo, là người anh luôn quan tâm, thường xuyên đến thăm hay gửi thư động viên gia đình, ngay cả trong những năm dài bị tù đày và sau đó là lưu vong.

Sau biến cố 1975, khi miền Nam Việt Nam thất thủ, cha mẹ và phần lớn anh chị em bà Hồng đã phải di cư sang Úc, Canada và Hoa Kỳ.

Trong một bưu thiếp gửi cho cha mẹ đang ở Úc vào năm 1982, Đức Văn Thuận báo tin về sự ra đi của hai người thân ở quê nhà, và thêm:
“Con vẫn khoẻ mạnh. Mỗi ngày con cầu nguyện cho ba và má. Năm nay, làng Phú Cam của chúng ta kỷ niệm 300 năm đón nhận đức tin Công giáo. Chúng ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho nhau.”

Khi còn nhỏ, Đức Văn Thuận thường chăm sóc em gái Elisabeth. Về sau, bà lại giúp chăm sóc những con chuột lang và chim cảnh của anh. Trong thời gian đi học, bà vẫn nhận được sự hướng dẫn đầy yêu thương từ người anh linh mục.

“Bưu thiếp Đức Văn Thuận gửi cho cha mẹ vào năm 1982. Ảnh: Elisabeth Nguyễn cung cấp.”

“Con có hạnh phúc không?”

Tuổi thơ lớn lên giữa chiến tranh Việt Nam khiến bà Hồng nhiều lần hoài nghi về lòng nhân lành của Thiên Chúa. Bà thú nhận rằng khi bước vào tuổi trưởng thành, bà đã có lúc “quay lưng với Giáo hội, vì nghĩ rằng: ‘Thiên Chúa là tình yêu, nhưng sao lại có quá nhiều chết chóc và tang thương trong gia đình, trong cả đất nước?’”

Tuy nhiên, chính người anh – hơn bà hơn hai mươi tuổi – đã giúp bà tìm lại đức tin Công giáo, bắt đầu từ những năm bà đang hoàn thành luận văn cao học triết tại Đại học Sydney, Úc, năm 1974.

Luận văn của bà xoay quanh các triết gia hiện sinh như Jean-Paul Sartre và Albert Camus. Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận đã đọc bản thảo để góp ý, vì lúc đó ngài đang có chuyến đi Úc dự một cuộc họp Giám mục.

Bà nhớ lại: “Anh hỏi tôi: ‘Thế bây giờ em đã tìm ra ý nghĩa cuộc đời chưa? Em có hạnh phúc không?’ Tôi đã bật khóc và trả lời: ‘Không, em không hạnh phúc. Em vẫn đang tìm kiếm, nhưng em phải làm gì bây giờ? Em đã xong luận văn rồi, không thể quay lại nữa.’ Anh nói: ‘Không sao, các giáo sư luôn tôn trọng tự do tư tưởng. Em có thể trình bày với họ rằng: Lúc đầu em tin như thế, nhưng sau khi viết và nghiên cứu, em nhận ra mình không hạnh phúc.’”

“Anh chưa bao giờ kết án hay phán xét tôi,” bà nhấn mạnh.

Một năm sau đó, Toà Thánh đã bổ nhiệm Đức Văn Thuận – khi ấy đã làm Giám mục Nha Trang được 8 năm – trở thành Tổng Giám mục phó Sài Gòn. Chỉ ít lâu sau, Sài Gòn thất thủ và tháng 8 năm đó, ngài bị chính quyền cộng sản bắt giữ.

Năm 1979, ngài bị chuyển từ trại cải tạo sang quản thúc tại gia. Chính thời gian này, ngài bắt đầu viết những suy niệm trên các tờ lịch nhỏ hằng ngày và âm thầm gửi ra ngoài nhờ một cậu bé trong vùng.

Bà Hồng kể lại, bà bị đánh động sâu sắc bởi sức mạnh đức tin trong những lá thư ấy. Một lần, ngài viết về “lý lẽ của thập giá,” điều đã khiến bà vô cùng xúc động:

“Anh đã gặp gỡ Chúa Giêsu một cách sâu thẳm. Tôi đã nghĩ: ‘Mình cũng cần phải khám phá điều đó, để có thể gặp gỡ Thiên Chúa như anh.’ Bởi vì chính anh – người đã từng thay tã cho tôi, người từng dẫn tôi đi mua kẹo – lại có một mối tương quan thân tình với Chúa đến thế.”

 

Hannah Brockhaus – catholicnewsagency.com