Tin Đấng bị treo

Kinh Thánh xác định: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.” (Ga 19:37) Chắc chắn họ không nhìn xem Chúa Giêsu như thế nào, chết thật hay chưa, mà họ đã thực sự run sợ và bắt đầu tin. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Chưa đánh được người, mặt đỏ như vang; đánh được người rồi, mặt vàng như nghệ.” Thế đấy!

Niềm tin trừu tượng nhưng có thể cảm nhận. Niềm tin là gì trong đời sống chúng ta? Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) cho biết: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này có thể tồn tại và chuyển động.” Ôi, như vậy thì niềm tin tuyệt vời biết bao!

Cũng liên quan đức tin, Thánh Piô Năm Dấu xác định: “Thiên Chúa muốn kết ước với linh hồn trong đức tin, linh hồn nào muốn cử hành hôn lễ thiên đàng ấy PHẢI bước đi trong đức tin tinh ròng, đó là phương thế duy nhất thích hợp cho sự kết hợp tình yêu.” Thánh Thomas Aquinô cho biết: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng đức tin, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc.”

Với kinh nghiệm riêng, Chân phước Charles de Foucauld chia sẻ: “Giây phút tôi nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, tôi biết tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc sống cho một mình Người. Đức tin tước lột mặt nạ khỏi thế giới này và tỏ ra Thiên Chúa trong mọi sự. Đức tin làm cho không còn sự gì là không thể, làm cho những từ ngữ như lo lắng, nguy hiểm và sợ hãi trở nên vô nghĩa. Nhờ đó, tín hữu sống cuộc đời yên hàn thanh thản, với một niềm tin sâu xa – như một con trẻ được mẹ cầm tay.”

Niềm tin lệch lạc dẫn tới tội lỗi. Mê tín dị đoan là dạng tin sai lầm, khiến người ta làm những điều mâu thuẫn. Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi ngày xưa: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.” (2 Sb 36:14-16) Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ. Không phải là Ngài không biết, mà Ngài tạo cơ hội để người ta sám hối.

Và Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.” (2 Sb 36:19-21) Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử, không ai thể che giấu sự thật.

Lịch sử vẫn diễn biến theo dòng thời gian, và Thiên Chúa luôn hiện hữu và theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, Thiên Chúa có mặt trong lịch sử loài người, trong lịch sử cuộc đời của riêng từng người – kể cả những người vô thần. Đó là sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, dù người ta muốn hay không muốn.

Quá khứ, hiện tại, và tương lai là ba thời (thì) chính của cuộc sống, của thời gian. Cuộc đời mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, mà chỉ có hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên chuyện hôm qua, bởi vì quá khứ có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta không thể làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể rút được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay và hướng tới tương lai.

Kinh Thánh cho biết: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23) Chính Thiên Chúa luôn mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh – cơ hội thuận tiện. Càng dứt khoát thì càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi thì càng hữu ích cho chúng ta – cả thể lý và tinh thần.

Tha phương cầu thực đã thấy khổ, càng khổ hơn khi phải lưu đày, thế nên Thánh Vịnh gia than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3) Đang buồn làm sao vui nổi, đang khóc làm sao cười được? Vậy mà ngày nay thấy có dạng “khóc thuê,” cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ khấn thuê, dâng lễ vật thuê,… Thần linh cũng không biết tính sao. Thần linh cũng khổ lắm chứ đâu an nhàn như những kẻ tham lam, vội vàng vơ vét vào!

Tâm sự canh cánh, nỗi niềm nặng trĩu cõi lòng, Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn.” (Tv 137:4-6) Khi buồn thì người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc, cảnh vật cũng như lây nhiễm nỗi buồn. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Bên ngoài nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đã cô đọng thành sự tĩnh lặng, bất động. Đá không đeo mà nặng trĩu!

Kiếp phàm nhân là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Vì không có niềm tin vào Thiên Chúa nên người ta thất vọng, có những người tuyệt vọng nên đã tự kết liễu đời mình. Tội chất chồng lên nhau.

Là tín nhân, chúng ta cũng đau khổ nhưng vẫn hạnh phúc, bởi vì chúng ta có niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, Đấng đã chịu chết để chúng ta được sống và sống dồi dào. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời.” (Ep 2:4-6) Tất cả là hồng ân, chúng ta chẳng làm được gì đáng công trạng, giả sử chúng ta có làm được điều gì khác thường, hơn người, thì cũng chỉ là con số không to lớn và rỗng tuếch mà thôi. Nhưng chúng ta luôn phải canh chừng “cái tôi” kẻo sinh ảo tưởng và ảo giác.

Vừa nhấn mạnh vừa giải thích tỉ mỉ, Thánh Phaolô nói: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:7-10) Ai cũng được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để vinh danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu hữu hạn, vì thế chúng ta thường khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Kiểu áp đặt Thiên Chúa theo ý mình như vậy là dạng ấu trĩ liên quan đức tin.

Thánh Mark khổ tu cho biết: “Các công việc là điều cần thiết và được Thiên Chúa minh nhiên an định, nhưng chúng ta nên dứt bỏ các công việc không hợp giờ giấc và dành ưu tiên cho việc cầu nguyện, nhất là nên dứt bỏ những công việc đòi hỏi chi tiêu quá đáng hoặc sinh được quá nhiều của cải dư thừa. Ai biết vì Chúa mà tự hạn chế và loại bỏ những của cải dư thừa của họ bao nhiêu, người ấy càng giữ tâm trí khỏi bị xao lãng bấy nhiêu… để dành chỗ cho việc cầu nguyện tinh tuyền và chứng tỏ một niềm tin chân thành nơi Chúa Kitô. Còn ai vì kém đức tin hoặc vì một yếu đuối nào khác mà không làm được điều ấy thì ít nhất cũng hãy thừa nhận thực trạng, tố cáo sự ấu trĩ của mình, và hãy hết sức vươn lên.” Rất tuyệt vời, nhưng cũng rất khó thực hiện.

Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3:14-15) Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội lỗi của mỗi chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3:16-18)

“Ngày nào có nỗi khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Đau khổ có đủ kích cỡ, đủ mức độ, không tránh đâu được. Muốn hết khổ thì chỉ có cách là “sống chung” với nó; muốn nhẹ lòng thì cứ khóc cho “trôi” bớt. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã khuyên các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho chính phận mình và con cháu. (x. Lc 23:28) Chính mình phải biết thương mình trước, để gia tăng niềm tin, rồi mới có thể biết thương người khác.

Thánh sử Gioan cho biết: “Đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3:19-21) Lời lẽ rõ ràng và sắc bén lắm.

Bất kỳ ai muốn được Thiên Chúa xót thương thì phải chân thành ăn năn, đền tội, và không ngừng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa.” (Tv 17:1) Và thành tâm xác tín: “Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa, vì phúc lộc Ngài ban.” (Tv 13:6)

Những ngày vừa qua, thế giới “nóng” lên và khâm phục cô gái trẻ Ma Kial Sin, 19 tuổi, đã can đảm tranh đấu vì chính nghĩa, và cô đã bị quân đội bắn chết tại Mandalay, Myanmar, ngày 03-03-2021. Trên áo cô mặc có in câu: “Everything will be OK.” (Mọi thứ sẽ ổn thôi.) Cô gái này tuổi nhỏ nhưng chí lớn, dám quên mình vì đại nghĩa, và cô có niềm tin mạnh mẽ vào sự thật. Chúng ta cũng phải can đảm hành động vì sự thật, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm linh.

Đại đế Napoléon nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt.” Vĩ nhân Mahatma Gandhi phân tích: “Bất cứ ai bảo rằng họ không quan tâm đến chính trị thì cũng giống như kẻ đang chết đuối mà luôn mồm khẳng định họ không cần biết xung quanh mình là nước.” Tục ngữ Iran có câu rất đáng suy tư: “Nấm mồ thực sự của chúng ta không phải ở trong lòng đất mà ở trong tim của người ta.”

Thập Giá là nhục hình, nhưng đối với Thiên Chúa lại hoàn toàn khác. Cuối cùng, tướng cướp Dismas cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu đã phải cầu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Và chính viên đại đội trưởng cũng đã thức tỉnh lương tâm: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (Mc 15:39)

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con can đảm hành động vì chân lý của Ngài, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn và Bửu Huyết của Chúa Giêsu, vì Châu Lệ của Thánh Mẫu, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và chúng con – các hối nhân chân thành. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU