Nguyên văn Tuyên Bố Fiducia supplicans của Bộ Giáo Lý Đức Tin về việc chúc lành cho các cặp bất hợp lệ và đồng tính

Vũ Văn An – vietcatholic.net

Như đã biết, ngày 18 tháng 12 vừa qua, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố điều bộ gọi là tuyên ngôn “Fiducia supplicans” (Tín thác Nài xin) về khả thể chúc lành ngoại phụng vụ và bán phụng vụ các cặp sống trong các hoàn cảnh bất hợp lệ và đồng tính. Sau đây là nguyên văn Tuyên Bố căn cứ vào bản tiếng Anh do Tòa Thánh phổ biến.

Chúng tôi công bố đầy đủ bằng tiếng Anh Tuyên bố do Bộ Giáo lý Đức tin ban hành, với sự chấp thuận của Đức Giáo Hoàng, về các phép lành phi phụng vụ hoặc bán phụng vụ được áp dụng, chẳng hạn, đối với các cặp đồng tính luyến ái hoặc những người đã ly hôn rồi tái hôn. Đó là một tài liệu giải thích cả ý nghĩa cũng như chi tiết về việc có và không, cũng như lý do tại sao việc đó có thể hoặc không thể thực hiện được. Để thuận tiện cho việc đọc, chúng tôi cho in đậm những đoạn quan trọng của tài liệu.

* * *


Tín thác nài xin (Fiducia Applicans)

Về ý nghĩa mục vụ của các phép lành

Trình bầy

Tuyên bố này xem xét một số vấn đề đã được gửi đến Bộ này trong những năm gần đây. Trong quá trình chuẩn bị tài liệu, như thông lệ của mình, Bộ đã tham khảo ý kiến các chuyên gia, tiến hành một quá trình soạn thảo cẩn thận và thảo luận về văn bản trong Đại hội Phân ban Giáo lý của Bộ. Trong thời gian đó, tài liệu đã được thảo luận với Đức Thánh Cha. Cuối cùng, văn bản của Tuyên bố đã được đệ trình lên Đức Thánh Cha để ngài xét duyệt và ngài đã phê chuẩn nó bằng chữ ký của ngài.

Trong khi chủ đề của tài liệu này còn đang được nghiên cứu, câu trả lời của Đức Thánh Cha đối với các Thắc mắc[Dubia] của một số Hồng Y đã được biết đến. Câu trả lời đó cung cấp những giải thích rõ ràng và quan trọng cho suy tư này và thể hiện yếu tố quyết định đối với công việc của Bộ. Vì “Giáo triều Rôma chủ yếu là một công cụ phục vụ người kế vị Thánh Phêrô” (Tông hiến Praedicate Evangelium, II, 1), công việc của chúng tôi phải thúc đẩy, cùng với sự hiểu biết về tín lý lâu đời của Giáo hội, việc tiếp nhận giáo huấn của Đức Thánh Cha.

Giống như câu trả lời đã nói ở trên của Đức Thánh Cha đối với các Dubia của hai Hồng Y, Tuyên bố này vẫn kiên quyết dựa trên tín lý truyền thống của Giáo hội về hôn nhân, không cho phép bất cứ loại nghi thức phụng vụ hoặc phép lành nào tương tự như nghi thức phụng vụ có thể gây nhầm lẫn. Tuy nhiên, giá trị của tài liệu này là nó mang lại một sự đóng góp chuyên biệt và sáng tạo cho ý nghĩa mục vụ của các phép lành, cho phép mở rộng và làm phong phú cách hiểu cổ điển về các phép lành, vốn được liên kết chặt chẽ với quan điểm phụng vụ. Suy tư thần học như vậy, dựa trên tầm nhìn mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô, hàm ý một sự phát triển thực sự từ những gì đã được nói về các phép lành trong Huấn quyền và các văn bản chính thức của Giáo hội. Điều này giải thích tại sao văn bản này lại mang loại hình “Tuyên ngôn”.

Chính trong bối cảnh này mà người ta có thể hiểu được khả thể chúc phúc các cặp đôi trong hoàn cảnh bất hợp lệ và các cặp đồng tính mà không cần chính thức xác nhận tình trạng của họ hoặc thay đổi giáo huấn lâu đời của Giáo hội về hôn nhân theo bất cứ cách nào.

Tuyên bố này cũng nhằm mục đích tôn vinh dân Chúa trung thành, những người tôn thờ Chúa với rất nhiều cử chỉ tín thác sâu sắc vào lòng thương xót của Người và là những người, với niềm tin tưởng này, không ngừng đến để tìm kiếm phúc lành từ Mẹ Giáo Hội.

Đức Hồng Y Víctor Manuel FERNÁNDEZ
Bộ trưởng

Dẫn nhập

1. Lòng tín thác của dân Chúa nài xin nhận được hồng ân phúc lành tuôn chảy từ Trái Tim Chúa Kitô qua Giáo Hội của Người. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đưa ra lời nhắc nhở kịp thời này: “Phúc lành lớn lao của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Người là ân phúc vĩ đại của Thiên Chúa, Con của Người. Người là một phước lành cho toàn thể nhân loại, một phước lành đã cứu rỗi tất cả chúng ta. Người là Lời Hằng Hữu, mà với Người Chúa Cha đã chúc phúc cho chúng ta ‘khi chúng ta còn là tội nhân’ (Rm 5:8), như Thánh Phaolô nói. Người là Ngôi Lời nhập thể, được hiến tế cho chúng ta trên thập giá.”(1)

2. Được khích lệ bởi một sự thật cao cả và đầy an ủi như vậy, Thánh Bộ này đã xem xét một số vấn đề có tính chất chính thức cũng như không chính thức về khả thể chúc phúc cho các cặp đồng tính và – dưới ánh sáng của cách tiếp cận mục vụ và tình cha của Đức Thánh Cha Phanxicô – về việc đưa ra những minh xác mới mẻ về Responsum ad dubium [Phúc đáp cho thắc mắc] (2) mà Bộ Giáo lý Đức tin công bố vào ngày 22 tháng 2 năm 2021.

3. Bản Phúc đáp nói trên đã gây ra nhiều phản ứng khác nhau: một số hoan nghênh sự rõ ràng của văn kiện và tính nhất quán của nó với giáo huấn lâu đời của Giáo hội; những người khác không chia sẻ câu trả lời tiêu cực mà nó đưa ra cho câu hỏi hoặc không coi việc xây dựng câu trả lời của nó và các lý do được cung cấp trong Ghi chú Giải thích đính kèm là đủ rõ ràng. Để đáp lại phản ứng thứ hai với lòng bác ái huynh đệ, có vẻ như là cơ hội để lấy lại chủ đề này và đưa ra một tầm nhìn kết hợp các khía cạnh tín lý với các khía cạnh mục vụ một cách mạch lạc bởi vì “tất cả giáo huấn tôn giáo cuối cùng phải được phản ảnh trong cách sống của thầy, vốn đánh thức sự đồng tình của trái tim bằng sự gần gũi, tình yêu và sự chứng tá của nó.” (3)

I. Phép lành trong Bí tích Hôn phối

4. Câu trả lời gần đây của Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho câu hỏi thứ hai trong năm câu hỏi được Hai vị Hồng Y[4] đặt ra mang lại cơ hội khám phá vấn đề này sâu hơn, đặc biệt là về những hàm ý mục vụ của nó. Cần tránh việc “điều gì đó không phải là hôn nhân lại được thừa nhận là hôn nhân.”[5] Vì vậy, những nghi thức và lời cầu nguyện có thể tạo ra sự nhầm lẫn giữa những gì cấu thành nên hôn nhân – đó là “sự kết hợp độc quyền, ổn định và bất khả tiêu giữa một người nam và một người nữ, tự nhiên cởi mở với việc sinh con cái”[6]—và những gì trái ngược với điều đó đều không được chấp nhận. Niềm tin này được đặt nền tảng trên giáo lý hôn nhân lâu đời của Công Giáo; chỉ trong bối cảnh này mà các mối quan hệ tính dục mới tìm được ý nghĩa tự nhiên, thích hợp và đầy đủ nhân bản của chúng. Tín lý của Giáo Hội về điểm này vẫn vững chắc.

5. Đây cũng là cách hiểu về hôn nhân được Tin Mừng đưa ra. Vì lý do này, khi nói đến việc ban phép lành, Giáo hội có quyền và nghĩa vụ tránh bất cứ nghi thức nào có thể mâu thuẫn với xác tín này hoặc dẫn đến nhầm lẫn. Đó cũng là ý nghĩa của Phản hồi của Bộ Giáo lý Đức tin, trong đó tuyên bố rằng Giáo hội không có quyền ban phép lành cho sự kết hợp của những người cùng giới tính.

6. Cần nhấn mạnh rằng trong Nghi thức Bí tích Hôn phối, điều này không chỉ liên quan đến bất cứ phép lành nào mà còn là một cử chỉ dành riêng cho thừa tác viên thụ phong. Trong trường hợp này, phép lành do thừa tác viên thụ phong ban tặng gắn liền trực tiếp với sự kết hợp cụ thể của một người nam và một người nữ, những người thiết lập một giao ước độc quyền và bất khả tiêu bằng sự ưng thuận của họ. Sự kiện này cho phép chúng ta nêu bật nguy cơ nhầm lẫn phép lành được ban cho bất cứ sự kết hợp nào khác với Nghi thức riêng của Bí tích Hôn phối.

II. Ý nghĩa của các phước lành khác nhau

7. Câu trả lời nêu trên của Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta mở rộng và làm phong phú thêm ý nghĩa của các phép lành.

8. Phép lành là một trong những á bí tích phổ biến và phát triển nhất. Thật vậy, chúng khiến chúng ta hiểu rõ sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống và nhắc nhở chúng ta rằng, ngay cả khi sử dụng các tạo vật, con người được mời gọi tìm kiếm Thiên Chúa, yêu mến Người và trung thành phục vụ Người.[7] Vì lý do này, phước lành có như những người nhận: những con người; những đồ vật dùng trong thờ phượng và tôn sùng; hình ảnh thiêng liêng; nơi sinh sống, nơi làm việc và nơi đau khổ; thành quả của trái đất và sự lao động vất vả của con người; và tất cả các thực tại được tạo dựng đều hướng về Đấng Tạo Hóa, ca ngợi và chúc tụng Người bằng vẻ đẹp của chúng.

Ý nghĩa Phụng vụ của Nghi thức ‘Phép lành’

9. Theo quan điểm phụng vụ nghiêm ngặt, việc chúc lành đòi hỏi những gì được chúc phúc phải phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa, như được diễn tả trong giáo huấn của Giáo hội.

10. Thật vậy, các phép lành được cử hành nhờ đức tin và nhằm ca ngợi Thiên Chúa cũng như mang lại lợi ích thiêng liêng cho dân Người. Như Sách Các Phép Lành giải thích, “để ý định này có thể trở nên rõ ràng hơn, theo truyền thống cổ xưa, các công thức phép lành chủ yếu nhằm tôn vinh Thiên Chúa vì các hồng ân của Người, cầu xin ân huệ của Người và hạn chế quyền lực của sự dữ trong thế giới.”[8]Vì vậy, những ai cầu xin phúc lành của Thiên Chúa thông qua Giáo hội được mời gọi “củng cố tâm hướng của mình nhờ đức tin, vì đức tin làm được mọi sự” và tin tưởng vào “tình yêu thôi thúc việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa”. [9] Đây là lý do tại sao, trong khi “luôn luôn có cơ hội để ca ngợi Thiên Chúa qua Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần”, thì cũng cần phải quan tâm đến việc làm như vậy với “những sự việc, địa điểm hoặc hoàn cảnh không trái với luật pháp hoặc tinh thần Tin Mừng.”[10] Đây là cách hiểu phụng vụ về các phép lành trong chừng mực chúng là những nghi thức được Giáo hội chính thức đề xuất.

11. Dựa trên những cân nhắc này, Ghi chú Giải thích của Bộ Giáo lý Đức tin cho Bản Phản hồi năm 2021 của Bộ nhắc nhở rằng khi một phép lành được khẩn cầu trên một số mối quan hệ con người bằng một nghi thức phụng vụ đặc biệt, điều cần thiết là những gì được làm phép phải phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa được viết trong sự sáng tạo và được mặc khải đầy đủ bởi Chúa Kitô. Vì lý do này, vì Giáo hội luôn coi những quan hệ tình dục diễn ra trong hôn nhân là hợp pháp về mặt luân lý, nên Giáo hội không có quyền ban phép lành phụng vụ khi điều đó, một cách nào đó, mang lại một hình thức hợp pháp về mặt đạo đức cho sự kết hợp được cho là đã kết hôn hoặc cho việc thực hành tình dục ngoài hôn nhân. Đức Thánh Cha nhắc lại nội dung của Tuyên bố này trong Câu trả lời của ngài cho thắc mắc của hai Hồng Y.

12. Người ta cũng phải tránh nguy cơ giản lược ý nghĩa của các phép lành vào quan điểm này mà thôi, vì nó sẽ khiến chúng ta mong đợi cùng những điều kiện luân lý cho một phép lành đơn giản được đòi hỏi khi lãnh nhận các bí tích. Rủi ro như vậy đòi hỏi chúng ta phải mở rộng quan điểm này hơn nữa. Thật vậy, có nguy cơ là một cử chỉ mục vụ được yêu thích và phổ biến rộng rãi như thế sẽ phải chịu quá nhiều điều kiện tiên quyết về mặt đạo đức, mà, dưới sự đòi hỏi của quyền kiểm soát, có thể làm lu mờ quyền năng vô điều kiện của tình yêu Thiên Chúa vốn là nền tảng cho cử chỉ chúc lành.

13. Chính về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô thúc giục chúng ta đừng “đánh mất lòng bác ái mục vụ, vốn thấm nhuần mọi quyết định và thái độ của chúng ta” và tránh trở thành “những thẩm phán chỉ phủ nhận, bác bỏ và loại trừ”. (11) Như thế, chúng ta hãy đáp ứng đề nghị của Đức Thánh Cha bằng cách khai triển cách hiểu biết rộng rãi hơn về việc ban phép lành.

Những việc ban phép lành trong Kinh Thánh

14. Để suy gẫm về các phước lành bằng cách thu thập các quan điểm khác nhau, trước tiên chúng ta cần được soi sáng bởi tiếng nói của Kinh thánh.

15. “Xin Chúa ban phước lành và gìn giữ anh chị em. Cầu xin Chúa chiếu sáng mặt Người trên anh chị em và tỏ lòng nhân từ đối với anh chị em. Xin Chúa đoái nhìn đến anh chị em và ban bình an cho anh chị em” (Ds 6:24-26). “Phước lành linh mục” mà chúng ta tìm thấy trong Cựu Ước, đặc biệt là trong Sách Dân Số, có tính chất “đi xuống” vì nó tượng trưng cho lời cầu xin một phúc lành từ Thiên Chúa ban xuống cho con người: đó là một trong những bản văn cổ xưa nhất về phép lành của Thiên Chúa. Sau đó, có loại phước lành thứ hai mà chúng ta tìm thấy trong các trang Kinh Thánh: đó là phước lành “đi lên” từ đất lên trời, hướng về Thiên Chúa. Phép lành theo nghĩa này có nghĩa là ca ngợi, tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa vì lòng thương xót và sự thành tín của Người, vì những kỳ công Người đã tạo ra, và vì tất cả những gì đã xảy ra theo ý muốn của Người: “linh hồn tôi ơi, và tất cả những gì ở trong tôi, hãy chúc tụng Chúa, hãy chúc tụng thánh danh Người!” (Tv 103:1).

16. Đối với Thiên Chúa là Đấng chúc lành, chúng ta cũng đáp lại bằng lời chúc tụng. Menkixêđê, Vua xứ Salem, chúc phước cho Áp-ram (x. Sáng thế 14:19); Rêbêca được các thành viên trong gia đình chúc phúc ngay trước khi nàng trở thành cô dâu của Ixaác (x. St 24:60), ông này lần lượt chúc phúc cho con trai mình là Giacóp (x. St 27:27). Giacóp chúc lành cho Pharaô (x. St 47:10), các cháu trai của ông, Épraim và Mơnaxe (x. St 48:20), và 12 người con trai của ông (x. St 49:28). Môsê và Aaron chúc lành cho cộng đồng (x. Xh 39:43; Lv 9:22). Những người chủ gia đình chúc phúc cho con cái trong đám cưới, trước khi lên đường và trước cái chết sắp xảy ra. Theo đó, những phước lành này dường như là một ơn phúc dồi dào và vô điều kiện.

17. Lời chúc phúc trong Tân Ước, trong yếu tính, vẫn giữ nguyên ý nghĩa như trong Cựu Ước. Chúng ta tìm thấy ơn phúc thiêng liêng “đi xuống”, lời tạ ơn của con người “đi lên” và phúc lành do con người truyền đạt “mở rộng” đến người khác. Ông Dacaria, sau khi đã lấy lại được khả năng sử dụng lời nói, đã chúc tụng Chúa vì những việc kỳ diệu của Người (x. Lc 1:64). Simeon, khi ôm Chúa Giêsu sơ sinh trong tay, chúc tụng Thiên Chúa vì đã ban cho ông ơn được chiêm ngưỡng Đấng Mêxia cứu độ, và sau đó chúc phúc cho cha mẹ của trẻ là Đức Maria và Thánh Giuse (x. Lc 2:34). Chúa Giêsu chúc tụng Chúa Cha trong bài thánh ca nổi tiếng ca ngợi và hân hoan mà Người ngỏ cùng Người: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con chúc tụng Cha” (Mt 11:25).

18. Tiếp nối Cựu Ước, nơi Chúa Giêsu phép lành không chỉ đi lên, hướng về Chúa Cha, mà còn đi xuống, đổ xuống người khác như một cử chỉ ân sủng, bảo vệ và tốt lành. Chính Chúa Giêsu đã thực hiện và cổ vũ việc thực hành này. Chẳng hạn, Người chúc phúc cho trẻ em: “Người ôm chúng vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10:16). Và cuộc hành trình trần thế của Chúa Giêsu sẽ kết thúc chính bằng phép lành cuối cùng dành cho Nhóm Mười Một, ngay trước khi Người lên cùng Chúa Cha: “Và Người giơ tay chúc lành cho họ. Khi đang chúc lành cho các ông, Người rời khỏi các ông và được rước lên trời” (Lc 24:50-51). Hình ảnh cuối cùng của Chúa Giêsu trên trái đất là hình ảnh đôi tay giơ lên làm phép lành.

19. Trong mầu nhiệm tình yêu của mình, qua Chúa Kitô, Thiên Chúa truyền ban cho Giáo hội quyền năng chúc lành. Được Thiên Chúa ban cho con người và được họ ban cho những người lân cận, phúc lành được biến đổi thành sự hòa nhập, liên đới và kiến tạo hòa bình. Nó là một thông điệp tích cực về sự an ủi, chăm sóc và khuyến khích. Phép lành diễn tả vòng tay thương xót của Thiên Chúa và tình mẫu tử của Giáo hội, mời gọi các tín hữu có cùng cảm xúc như Thiên Chúa đối với anh chị em mình.

Một sự hiểu biết thần học-mục vụ về các phước lành

20. Người xin phép lành chứng tỏ mình cần sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa trong cuộc đời mình và người xin phép lành từ Giáo hội nhìn nhận Giáo Hội như một bí tích cứu độ do Thiên Chúa ban. Tìm kiếm phúc lành trong Giáo Hội là thừa nhận rằng sự sống của Giáo Hội xuất phát từ lòng thương xót của Thiên Chúa và giúp chúng ta tiến về phía trước, sống tốt hơn và đáp lại ý muốn của Chúa.

21. Để giúp chúng ta hiểu giá trị của một cách tiếp cận mang tính mục vụ hơn đối với các phép lành, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta hãy chiêm ngưỡng, với thái độ đức tin và lòng thương xót của người cha, sự thật rằng “khi một người xin một phép lành, người ta đang bày tỏ một lời cầu xin sự trợ giúp của Thiên Chúa, lời cầu xin để sống tốt hơn và niềm tin vào một Người Cha có thể giúp chúng ta sống tốt hơn.”[12] Lời cầu xin này, trong mọi cách, phải được quý trọng, đồng hành và đón nhận với lòng biết ơn. Những người đến xin phép lành một cách tự phát, qua việc yêu cầu này, bày tỏ sự cởi mở chân thành của họ đối với tính siêu việt, niềm tự tin của trái tim họ rằng họ không chỉ tin vào sức mạnh của chính họ mà thôi, nhu cầu của họ cần Thiên Chúa và mong muốn thoát ra khỏi những giới hạn chật hẹp của thế giới này, bị bao bọc trong những giới hạn của nó.

22. Như Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu dạy chúng ta, niềm tin tưởng này “là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến Tình Yêu ban phát mọi sự. Với sự tin tưởng, nguồn ân sủng chẩy tràn vào cuộc sống của chúng ta […]. Vì vậy, điều phù hợp nhất là chúng ta nên đặt niềm tin tưởng chân thành không phải vào bản thân mà vào lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta vô điều kiện […]. Tội lỗi của thế gian thì lớn lao nhưng không phải là vô hạn, trong khi tình yêu thương xót của Đấng Cứu Chuộc quả thực là vô hạn.”[13]

23. Khi được xem xét bên ngoài khuôn khổ phụng vụ, những cách thể hiện đức tin này được tìm thấy trong một lĩnh vực mang tính tự phát và tự do hơn. Tuy nhiên, “không bao giờ được coi tính chất tùy chọn của các việc thực hành đạo đức có nghĩa là đánh giá thấp hoặc thậm chí thiếu tôn trọng đối với các thực hành như vậy. Con đường phía trước trong lĩnh vực này đòi hỏi một sự đánh giá đúng đắn và khôn ngoan về sự phong phú của lòng đạo đức bình dân, [và] tính tiềm năng của những sự phong phú đó.”[14] Bằng cách này, các phúc lành trở thành một nguồn tài nguyên mục vụ cần được quý trọng hơn là một rủi ro hoặc một vấn đề.

24. Từ quan điểm chăm sóc mục vụ, các phép lành phải được đánh giá như những hành vi sùng kính “nằm ngoài việc cử hành Bí tích Thánh Thể và các bí tích khác”. Thật vậy, “ngôn ngữ, nhịp điệu, đường lối và sự nhấn mạnh thần học” của lòng đạo đức bình dân khác “với những ngôn ngữ của hành động phụng vụ tương ứng”. Vì lý do này, “các thực hành đạo đức phải bảo tồn phong cách, sự đơn giản và ngôn ngữ phù hợp của chúng, [và] luôn luôn phải tránh những nỗ lực áp đặt các hình thức ‘cử hành phụng vụ’ lên chúng.”[15]

25. Hơn nữa, Giáo hội phải tránh đặt thực hành mục vụ của mình vào bản chất cố định của một số kế hoạch giáo lý hoặc kỷ luật, đặc biệt khi chúng dẫn đến “một chủ nghĩa tinh hoa tự yêu mình thái quá [narcissistic] và độc đoán, theo đó thay vì truyền giáo, người ta phân tích và phân loại người khác, và thay vì mở cửa cho ân sủng, người ta dốc hết sức lực vào việc kiểm tra và chứng thực.”[16]Vì vậy, khi người ta xin một phép lành, không nên đặt một phân tích luân lý thấu đáo làm điều kiện tiên quyết để ban phép lành. Bởi vì, những người tìm kiếm phước lành không cần phải có sự hoàn thiện về mặt đạo đức trước đó.

26. Theo quan điểm này, Câu trả lời của Đức Thánh Cha hỗ trợ việc mở rộng tuyên bố năm 2021 của Bộ Giáo lý Đức tin từ quan điểm mục vụ. Vì, Câu trả lời mời gọi sự phân định liên quan đến khả năng thực hiện “các hình thức chúc phúc, do một hoặc nhiều người yêu cầu, không truyền đạt một quan niệm sai lầm về hôn nhân”[17] và, trong những tình huống không thể chấp nhận được về mặt đạo đức xét theo quan điểm khách quan, giải thích sự thật rằng “bác ái mục vụ đòi hỏi chúng ta không được đối xử đơn giản như ‘tội nhân’ những người mà tội lỗi hoặc trách nhiệm của họ có thể được giảm nhẹ bởi nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến khả năng bị quy kết chủ quan.”[18]

27. Trong bài giáo lý được trích dẫn ở phần đầu của Tuyên bố này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đề xuất một mô tả về loại phúc lành được ban cho tất cả mọi người mà không đòi hỏi bất cứ điều gì. Thật đáng để đọc những lời này với tấm lòng rộng mở, vì chúng giúp chúng ta nắm bắt được ý nghĩa mục vụ của những ơn lành được ban vô điều kiện: “Chính Thiên Chúa chúc lành. Trong những trang đầu tiên của Kinh Thánh, những lời chúc phúc liên tục được lặp lại. Chúa ban phước lành, nhưng con người cũng ban phước lành, và chẳng bao lâu sau, hóa ra phước lành sở hữu một sức mạnh đặc biệt, đồng hành cùng những ai nhận được nó trong suốt cuộc đời, và khiến tâm hồn con người được Chúa thay đổi. […] Vì vậy, đối với Chúa, chúng ta quan trọng hơn mọi tội lỗi chúng ta có thể phạm vì Người là cha, là mẹ, là tình yêu trong sáng, Người đã chúc phúc cho chúng ta mãi mãi. Và Người sẽ không bao giờ ngừng ban phước cho chúng ta. Thật là một trải nghiệm mạnh mẽ khi đọc những đoạn Kinh Thánh về phước lành này trong nhà tù hoặc trong một nhóm phục hồi. Để làm cho những người đó cảm thấy rằng họ vẫn được chúc phúc, bất chấp những lỗi lầm nghiêm trọng của họ, rằng Cha trên trời của họ vẫn tiếp tục muốn điều tốt cho họ và hy vọng rằng cuối cùng họ sẽ mở lòng đón nhận điều tốt lành. Ngay cả khi những người thân nhất của họ có bỏ rơi họ, vì giờ đây họ đánh giá họ là những kẻ không thể cứu chuộc được, thì Thiên Chúa vẫn luôn coi họ như con cái của Người.”[19]

28. Có nhiều trường hợp người ta tự phát xin phép lành, dù khi hành hương, tại các đền thánh, hay thậm chí trên đường phố khi họ gặp một linh mục. Thí dụ, chúng ta có thể tham khảo Sách Các Phép Lành, trong đó cung cấp một số nghi thức chúc lành cho người khác, bao gồm người già, người bệnh, những người tham gia buổi giáo lý hoặc cầu nguyện, những người hành hương, những người bắt đầu hành trình, các nhóm và hiệp hội tình nguyện, v.v… Những phước lành như vậy là dành cho tất cả mọi người; không ai bị loại trừ khỏi chúng. Chẳng hạn, trong phần Dẫn nhập của Nghi thức Ban Phép Lành cho Người Cao Tuổi, có nói rằng mục đích của việc ban phép lành này là “để chính những người cao tuổi có thể nhận được từ anh chị em họ một chứng tá về lòng tôn trọng và lòng biết ơn, đồng thời cùng với họ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ân huệ họ đã nhận được từ Người và vì điều tốt họ đã làm với sự giúp đỡ của Người.”[20] Trong trường hợp này, chủ đề của phép lành là người cao tuổi, mà vì họ và cho họ lời tạ ơn đã được dâng lên Chúa vì điều tốt lành Người đã làm và vì những ơn ích nhận được. Không ai có thể bị ngăn cản khỏi hành động tạ ơn này, và mỗi người – ngay cả khi họ sống trong những hoàn cảnh không theo kế hoạch của Đấng Tạo Hóa – đều sở hữu những yếu tố tích cực mà vì đó chúng ta có thể ca ngợi Chúa.

29. Từ viễn ảnh chiều kích đi lên, khi một người nhận thức được các hồng ân và tình yêu vô điều kiện của Chúa, ngay cả trong những tình huống tội lỗi – đặc biệt khi lời cầu nguyện được lắng nghe – thì tâm hồn người tín hữu dâng lời ca ngợi Thiên Chúa và chúc tụng Người. Không ai bị loại trừ khỏi loại chúc tụng này. Mỗi người, cá nhân hoặc cùng với những người khác, đều có thể dâng lời ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa.

30. Tuy nhiên, sự hiểu biết phổ biến về phước lành cũng coi trọng tầm quan trọng của phước lành đi xuống. Mặc dù “không thích hợp để một Giáo phận, một Hội đồng Giám mục hoặc bất cứ cơ cấu giáo hội nào khác liên tục và chính thức thiết lập các thủ tục hoặc nghi lễ cho mọi loại vấn đề,”[21]sự thận trọng và khôn ngoan mục vụ – tránh mọi hình thức tai tiếng và nhầm lẫn nghiêm trọng nơi các tín hữu – có thể gợi ý rằng thừa tác viên thụ phong tham gia cầu nguyện với những người, mặc dù trong một sự kết hợp không thể so sánh với một cuộc hôn nhân, muốn phó thác mình cho Chúa và lòng thương xót của Người, để cầu xin sự giúp đỡ của Người, và được hướng dẫn để hiểu biết hơn về kế hoạch yêu thương và chân lý của Người.

III. Phước lành của các cặp đôi trong hoàn cảnh bất thường và các cặp đôi đồng tính

31. Trong phạm vi được phác họa ở đây, xuất hiện khả thể ban phép lành cho các cặp vợ chồng trong hoàn cảnh trái luật và cho các cặp đồng tính, hình thức mà các thẩm quyền giáo hội không nên ấn định về mặt nghi thức để tránh tạo ra sự nhầm lẫn với phép lành riêng của Bí tích Hôn phối. Trong những trường hợp như vậy, một phép lành có thể được ban không chỉ có giá trị đi lên mà còn bao gồm việc cầu xin một phép lành từ Thiên Chúa ban xuống cho những người – nhận ra mình là người cơ cực và cần sự giúp đỡ của Người – không đòi hỏi sự hợp pháp của tình trạng riêng của họ, nhưng họ cầu xin rằng tất cả những gì chân thật, tốt lành và có giá trị nhân bản trong cuộc sống và các mối quan hệ của họ sẽ được phong phú, chữa lành và nâng cao nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Những hình thức chúc phúc này bày tỏ lời cầu xin Thiên Chúa ban cho những trợ giúp xuất phát từ sự thúc đẩy của Thánh Thần Người – điều mà thần học cổ điển gọi là “ơn hiện sủng” – để các mối quan hệ giữa con người có thể trưởng thành và phát triển trong sự trung thành với Tin Mừng, để họ có thể được giải thoát khỏi sự bất toàn và yếu đuối của mình, và để họ có thể tự phát biểu mình trong chiều kích ngày càng gia tăng của tình yêu Thiên Chúa.

32. Thật vậy, ân sủng của Thiên Chúa hoạt động trong cuộc sống của những người không cho mình là công chính nhưng khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân, như mọi người khác. Ân sủng này có thể định hướng mọi sự theo những kế hoạch huyền nhiệm và khó lường của Thiên Chúa. Vì vậy, với sự khôn ngoan không mệt mỏi và sự quan tâm từ mẫu, Giáo hội chào đón tất cả những ai đến gần Thiên Chúa với tấm lòng khiêm nhường, đồng hành với họ bằng những trợ giúp thiêng liêng giúp mọi người hiểu và nhận ra trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa trong cuộc sống của họ.[22]

33. Đây là một phúc lành, mặc dù không được bao gồm trong bất cứ nghi thức phụng vụ nào, [23] kết hợp lời cầu nguyện chuyển cầu với lời cầu xin sự giúp đỡ của Thiên Chúa bởi những người khiêm nhường hướng về Người. Thiên Chúa không bao giờ từ chối bất cứ ai đến gần Người! Cuối cùng, một phước lành cung ứng cho mọi người một phương tiện để tăng cường niềm tín thác vào Thiên Chúa. Do đó, lời cầu xin phép lành nói lên và nuôi dưỡng sự cởi mở đối với sự siêu việt, lòng thương xót và sự gần gũi với Thiên Chúa trong hàng ngàn hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, vốn không phải là chuyện nhỏ trong thế giới chúng ta đang sống. Đó là hạt giống của Chúa Thánh Thần cần được nuôi dưỡng chứ không được cản trở.

34. Chính phụng vụ của Giáo hội mời gọi chúng ta chấp nhận thái độ tín thác này, ngay cả khi chúng ta đang phạm tội, thiếu công trạng, yếu đuối và bối rối, như lời Nguyện nhập lễ tuyệt đẹp từ Sách lễ Rôma: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng sống, Đấng trong lòng nhân hậu dồi dào của Chúa, vượt quá công nghiệp và ước muốn của những người cầu xin Chúa, xin đổ lòng thương xót của Chúa xuống chúng con để tha thứ những gì lương tâm sợ hãi và ban những lời cầu nguyện không dám cầu xin” (lời nguyện nhập lễ cho Chúa nhật 27 Thường niên). Biết bao lần, qua phép lành đơn giản của một mục tử, không đòi hỏi phải phê chuẩn hay hợp pháp hóa bất cứ điều gì, người ta có thể cảm nghiệm được sự gần gũi của Chúa Cha, vượt trên mọi “công lao” và “mong muốn”?

35. Vì vậy, sự nhạy cảm mục vụ của các thừa tác viên thụ phong cũng phải được hình thành để thực hiện các phép lành một cách tự phát, những điều không tìm thấy trong Sách Các Phép Lành0.

36. Theo nghĩa này, điều cần thiết là phải nắm bắt được mối quan tâm của Đức Thánh Cha rằng những phép lành không theo nghi thức này không bao giờ ngừng là những cử chỉ đơn giản mang lại một phương tiện hữu hiệu để tăng cường lòng tin cậy vào Thiên Chúa nơi những người xin chúng, cẩn thận để họ không nên trở thành một nghi thức phụng vụ hoặc bán phụng vụ, tương tự như một bí tích. Thật vậy, một việc biến thành nghi thức như vậy sẽ tạo nên một sự bần cùng hóa nghiêm trọng bởi vì nó sẽ khiến một cử chỉ có giá trị lớn trong lòng đạo đức bình dân bị kiểm soát quá mức, tước đi sự tự do và tính tự phát của các thừa tác viên trong việc đồng hành mục vụ với đời sống người dân.

37. Về vấn đề này, chúng ta nhớ đến những lời sau đây của Đức Thánh Cha, đã được trích dẫn một phần: “Những quyết định có thể là một phần của sự thận trọng mục vụ trong một số hoàn cảnh nhất định không nhất thiết phải trở thành một quy tắc. Điều đó có nghĩa là, sẽ không thích hợp nếu một Giáo phận, Hội đồng Giám mục hoặc bất cứ cơ cấu giáo hội nào khác liên tục và chính thức thiết lập các thủ tục hoặc nghi thức cho mọi loại vấn đề […]. Giáo luật không nên và không thể bao trùm mọi thứ, các Hội đồng Giám mục cũng không nên tuyên bố làm như vậy với các văn kiện và nghi thức khác nhau của họ, vì đời sống của Giáo hội chảy qua nhiều kênh bên cạnh những kênh quy phạm.”[24] Do đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc lại rằng “ những gì là một phần của việc phân định thực tế trong những hoàn cảnh cụ thể không thể được nâng lên mức độ của một quy tắc” bởi vì điều này “sẽ dẫn đến một lối giải nghi [casuistry] không thể chấp nhận được.”[25]

38. Vì lý do này, người ta không nên cung cấp hay cổ vũ một nghi thức chúc phúc cho các cặp trong tình trạng trái luật. Đồng thời, người ta không nên ngăn cản hoặc ngăn cấm sự gần gũi của Giáo hội với mọi người trong mọi hoàn cảnh mà họ có thể tìm kiếm sự giúp đỡ của Thiên Chúa qua một phép lành đơn giản. Trong lời cầu nguyện ngắn trước phép lành tự phát này, thừa tác viên thụ phong có thể cầu xin cho các cá nhân được bình an, sức khỏe, tinh thần kiên nhẫn, đối thoại và tương trợ – nhưng cũng cầu xin ánh sáng và sức mạnh của Chúa để họ có thể hoàn thành trọn vẹn ý muốn của Ngài.

39. Trong bất cứ trường hợp nào, chính để tránh bất cứ hình thức nhầm lẫn hoặc tai tiếng nào, khi lời cầu nguyện được một cặp yêu cầu trong một tình huống trái luật, cho dù nó được diễn tả ngoài các nghi thức do các sách phụng vụ quy định, thì việc chúc lành này không bao giờ được ban phát đồng thời với các nghi lễ của sự kết hợp dân sự, và thậm chí không liên quan đến chúng. Nó cũng không thể được thực hiện với bất cứ trang phục, cử chỉ hoặc lời nói nào phù hợp với một đám cưới. Điều tương tự cũng được áp dụng khi một cặp đồng tính yêu cầu lời chúc phúc.

40. Thay vào đó, một lời chúc phúc như vậy có thể tìm thấy trong những bối cảnh khác, chẳng hạn như một chuyến viếng thăm đền thánh, một cuộc gặp gỡ với một linh mục, một lời cầu nguyện được đọc trong một nhóm, hoặc trong một cuộc hành hương. Thật vậy, qua những phép lành được ban không phải qua những hình thức nghi thức đặc trưng của phụng vụ mà như một cách diễn tả tấm lòng mẫu tử của Giáo hội – tương tự như những phép lành xuất phát từ cốt lõi của lòng đạo đức bình dân – không có ý định hợp pháp hóa bất cứ điều gì, mà đúng hơn để mở cuộc đời người ta cho Thiên Chúa, xin Người giúp đỡ để họ sống tốt hơn, và cũng cầu xin Chúa Thánh Thần để các giá trị Tin Mừng được sống một cách trung thành hơn.

41. Những gì đã được nói trong Tuyên ngôn này về phúc lành cho các cặp đồng tính cũng đủ để hướng dẫn sự phân định khôn ngoan và mang tính cha con của các thừa tác viên được thụ phong về vấn đề này. Do đó, ngoài hướng dẫn được cung cấp ở trên, không nên mong đợi thêm câu trả lời nào về những cách khả hữu để điều chỉnh các chi tiết hoặc tính thực tế liên quan đến các phước lành thuộc loại này.[26]

IV. Giáo Hội là Bí Tích Tình Yêu Vô Biên của Thiên Chúa

42. Giáo hội tiếp tục cất lên những lời cầu nguyện và nài xin mà chính Chúa Kitô – bằng những tiếng kêu lớn và nước mắt – đã dâng lên trong cuộc sống trần thế của Người (x. Dt 5:7), và những lời cầu nguyện này có hiệu quả đặc biệt vì lý do này. Bằng cách này, “không chỉ bằng bác ái, gương sáng và việc làm sám hối, mà còn bằng lời cầu nguyện, cộng đồng giáo hội thực hiện chức năng mẫu tử đích thực trong việc đưa các linh hồn đến với Chúa Kitô.”[27]

43. Như vậy, Giáo hội là bí tích của tình yêu vô hạn của Thiên Chúa. Vì vậy, ngay cả khi mối quan hệ của một người với Thiên Chúa bị tội lỗi che mờ, người ấy luôn có thể cầu xin phúc lành, đưa tay ra cho Thiên Chúa, như Phêrô đã làm trong cơn bão khi ông kêu lên Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin cứu con!” (Mt 14:30). Thật vậy, việc mong muốn và nhận được một phúc lành có thể là điều tốt trong một số trường hợp. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng “một bước nhỏ, giữa những giới hạn to lớn của con người, có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn là một cuộc sống bề ngoài có vẻ ngăn nắp nhưng vẫn di chuyển qua ngày mà không gặp phải những khó khăn lớn lao.”[28]Theo cách này, “điều tỏa sáng là vẻ đẹp của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại từ cõi chết.”[29]

44. Bất cứ phúc lành nào cũng sẽ là cơ hội để đổi mới việc loan báo kerygma [giáo lý sơ truyền], một lời mời gọi đến gần hơn bao giờ hết với tình yêu của Chúa Kitô. Như Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã dạy: “Giống như Đức Maria, Giáo hội là trung gian ban phúc lành của Thiên Chúa cho thế giới: Giáo hội nhận được phúc lành đó khi đón nhận Chúa Giêsu và thông truyền nó khi mang Chúa Giêsu. Người là lòng thương xót và sự bình an mà thế giới tự nó không thể ban tặng được, và là điều nó luôn luôn cần, ít nhất như bánh mì.”[30]

46. Cân nhắc những điểm trên và tuân theo giáo huấn có thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Bộ này cuối cùng mong muốn nhắc lại rằng “gốc rễ của tính hiền lành Kitô giáo” là “khả năng cảm thấy được ban phước và khả năng ban phước […]. Thế giới này cần phước lành, và chúng ta có thể ban phước và nhận phước lành. Chúa Cha yêu thương chúng ta, và điều duy nhất còn lại đối với chúng ta là niềm vui chúc tụng Người, niềm vui được tạ ơn Người và học hỏi từ Người […] chúc phúc.”[31] Bằng cách này, mọi anh em và mọi chị em sẽ có thể cảm nhận được rằng, trong Giáo hội, họ luôn là những người hành hương, luôn là những kẻ ăn xin, luôn được yêu thương, và, bất chấp mọi sự, luôn được chúc phúc.

Hồng Y Víctor Manuel. FERNÁNDEZ
Bộ trưởng

Đức Cha Armando MATTEO
Thư ký Ban Giáo lý

Trong cuộc Yết kiến Ngày 18 tháng 12 năm 2023

Phanxicô

Ghi chú:

[1] Đức Phanxicô, Giáo lý về Cầu nguyện: Phép lành ngày 2 tháng 12 năm 2020).

[2] Xem. Bộ Giáo lý Đức tin, “Responsum” ad “dubium” de benedictione unionem Personarum eiusdem sexus et Nota esplicativa [“Giải đáp” “nghi ngờ” về việc ban phúc lành cho sự kết hợp giữa những người cùng giới tính và Văn bản giải thích] (15 tháng 3 năm 2021): AAS 113 (2021), 431-434.

[3] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), số 1. 42: AAS 105 (2013), 1037-1038.

[4] Xem Đức Phanxicô, Câu trả lời cho thắc mắc do hai Hồng Y đề xuất (11 tháng 7 năm 2023).

[5] Cùng nguồn, ad dubium 2, c.

[6] Cùng nguồn, ad dubium 2, a.

[7] Cfr. Rituale Romanum ex decreto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Ioannis Pauli PP. II promulgatum, De Benedictionibus, Praenotanda, Editio typica [được thành lập theo sắc lệnh của Công đồng chung thánh thiện Vatican II dưới thẩm quyền của Đức Gioan Phaolô II ban hành, De Benedictionibus, Praenotanda [Các Phép lành, các ghi chú], ấn bản điển hình, Libreria Editrice Vaticana, Città del Vaticano 2013, no. 12.

[8] Như trên, số 11: “Quo autem clarius hoc pateat, antiqua ex traditione, formulae benedictionum eo spectant ut imprimis Deum pro eius donis glorificent eiusque impetrent beneficia atque maligni potestatem in mundo compescant.[Điều này càng được làm rõ hơn, theo truyền thống cổ xưa, các công thức chúc lành chủ yếu nhằm tôn vinh Thiên Chúa vì những hồng ân của Người và đạt được những lợi ích của Ngườ cũng như kiểm tra quyền lực của kẻ ác trên thế giới].”

[9] Như trên, số15: “Quare illi qui benedictionem Dei per Ecclesiam expostulant, dispositiones suas ea fide confirment, cui omnia sunt possibilia; spe innitantur, quae non confundit; caritate praesertim vivificentur, quae mandata Dei servanda urget [Vì vậy, những người kêu gọi sự ban phước của Chúa thông qua Giáo hội phải xác nhận ý định của mình với đức tin rằng mọi sự đều có thể thực hiện được; họ dựa vào niềm hy vọng, điều không làm xáo trộn; họ sẽ được sinh động trước hết nhờ lòng bác ái, đức ái thúc đẩy việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa].”

[10] Như trên, số13: “Semper ergo et ubique occasio praebetur Deum per Christum in Spiritu Sancto laudandi, invocandi eique gratias reddendi, dummodo agatur de rebus, locis, vel adiunctis quae normae vel spiritui Evangelii non contradicant [Vì vậy, luôn luôn và ở mọi nơi có cơ hội để ca ngợi Thiên Chúa qua Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, kêu cầu và tạ ơn Người, miễn là về những sự việc, địa điểm hoặc hoàn cảnh không mâu thuẫn với các quy tắc hoặc tinh thần của Tin Mừng].”

[11] Đức Phanxicô, Câu trả lời cho Thắc mắc do hai Hồng Y đề xuất, ad dubium 2, d.

[12] Cùng nguồn, ad dubium 2, e.

[13] Phanxicô, Tông huấn C’est la Confiance (15 tháng 10 năm 2023), nos. 2, 20, 29.

[14] Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Hướng dẫn về Lòng đạo đức Bình dân và Phụng vụ. Nguyên tắc và Hướng dẫn (09/04/2002), số 1. 12.

[15] Như trên, số 13.

[16] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), số 1. 94: AAS 105 (2013), 1060.

[17] Đức Phanxicô, Câu trả lời cho Thắc mắc do hai Hồng Y đề xuất, ad dubium 2, e.

[18] Cùng nguồn, ad dubium 2, f.

[19] Đức Phanxicô, Giáo lý về Cầu nguyện: Phước lành (02/12/2020).

[20] De Benedictionibus, số. 258: “Haec benedictio ad hoc tendit ut ipsi senes a fratribus testimonium accipiant reverentiae grataeque mentis, dum simul cum ipsis Domino gratias reddimus pro beneficiis ab eo acceptis et pro bonis operibus eo adiuvante peractis [Phép lành này nhắm đến việc chính những người cao tuổi nhận được từ anh em mình chứng từ tôn kính và tâm hồn biết ơn, đồng thời cùng với họ tạ ơn Chúa vì những ân huệ nhận được từ Người và những công việc tốt lành được thực hiện nhờ sự trợ giúp của Người.”

[21] Đức Phanxicô, Câu trả lời cho Thắc mắc do hai Hồng Y đề xuất, ad dubium 2, g.

[22] Xem Đức Phanxicô, Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Amoris Laetitia (19-03-2016), số 1. 250: AAS 108 (2016), 412-413.

[23] X. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Hướng dẫn về Lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ (9 tháng 4 năm 2002), số 1. Điều 13: “Sự khác biệt khách quan giữa việc thực hành đạo đức và việc sùng kính phải luôn luôn rõ ràng trong cách diễn đạt sự thờ phượng. […] Các hành vi sùng kính và đạo đức nằm ngoài việc cử hành Bí tích Thánh Thể và các bí tích khác.”

[24] Đức Phanxicô, Câu trả lời cho Thắc mắc do hai Hồng Y đề xuất, ad dubium 2, g.

[25] Đức Phanxicô, Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng Amoris Laetitia (19-03-2016), số 1. 304: AAS 108 (2016), 436.

[26] X. ibid.

[27] Officium Divinum ex decreto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Pauli PP. VI promulgatum, Liturgia Horarum iuxta Ritum Romanum, Institutio Generalis de Liturgia Horarum [được thành lập theo sắc lệnh của Công đồng Vatican II dưới thẩm quyền của Đức Thánh Cha Phaolô 6 được ban hành, Phụng vụ các Giờ kinh theo Nghi thức Rôma, Quy chế Tổng quát về Phụng vụ các Giờ kinh], Editio typica altera, Libreria Editrice Vaticana, Città del Vaticano 1985, Số 17: “Itaque non tantum caritate, exemplo et paenitentiae operibus, sed etiam oratione ecclesialis communitas verum erga animas ad Christum adducendas maternum munus exercet [Vì vậy, không chỉ bằng bác ái, bằng gương sáng và các việc sám hối, mà còn bằng lời cầu nguyện của Giáo hội, cộng đồng thực hiện vai trò mẫu tử trong việc đưa các linh hồn đến với Chúa Kitô].”

[28] Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), số 1. 44: AAS 105 (2013), 1038-1039.

[29] Như trên, số 36: AAS 105 (2013), 1035.

[30] Bênêđíctô XVI, Bài giảng lễ trọng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 45, Vương cung thánh đường Vatican (1.01.2012): Insegnamenti VIII, 1 (2012), 3.

[31] Đức Phanxicô, Giáo lý về Cầu nguyện: Phép lành (2/12/2020),