Đức Maria trong Tân Ước (3): “Đấng đầy ân sủng” (Lu-ca 1:28)

Lời thứ hai của Gáp-ri-en dành cho Maria — thường được dịch là “Đấng đầy ân sủng” —cũng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa. Nó mở ra cho chúng ta một cánh cửa sổ để chiêm ngắm món quà tâm linh cao trọng mà Thiên Chúa đã ban tặng cho Ma-ri-a.

Từ “đầy ân sủng” trong tiếng Hy Lạp là kecharitōmenē, mà động từ gốc có nghĩa là “ban ơn,” “biệt đãi” hoặc “làm cho được tràn đầy ân sủng” (charitoun). Hình thức ngữ pháp của từ này (một phân từ bị động hoàn thành) mô tả một hành động đã bắt đầu trong quá khứ và tiếp tục có tác dụng trong hiện tại. Như vậy, từ kecharitōmenē khi được dịch chi tiết hơn sẽ mang nghĩa là “bạn đã và đang tiếp tục được ban ơn.” Điều này cho thấy rằng Ma-ri-a đã được Đức Chúa Trời ban ơn, ngay cả khi trước thời điểm sứ thần sứ hiện ra với Ma-ri-a. Do đó, Gáp-ri-en không đề cập đến một ân sủng mà Ma-ri-a sẽ có trong tương lai, nhưng là một ân sủng mà Ma-ri-a đã nhận được từ trước và sẽ tiếp tục trải nghiệm.

Nhưng ân sủng này có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với Maria? Mặc dù có rất nhiều cách giải thích, vì để cho đơn giản, chúng tôi sẽ tập trung vào hai cách tiếp cận phổ biến để hiểu việc Maria được ban ơn trong Lu-ca 1:28 có ý nghĩa như thế nào. Một đàng, một vài người kết luận rằng từ kecharitōmenē hướng đến một thực tại bên trong, đến sự thánh thiện cá nhân của Ma-ri-a và sự sống của Đức Chúa Trời ngự trong tâm hồn cô. Đàng khác, một số người lại cho rằng việc Maria được ban ơn chỉ là điều gì đó bên ngoài, mô tả cách Đức Chúa Trời đoái nhìn tới Maria với sự ưu ái, hoặc đơn thuần là vì chức năng của Ma-ri-a — Chúa ban ơn cho Ma-ri-a vì Ma-ri-a được chọn làm Mẹ của Đấng Mê-si-a.

Hầu hết các nhà chú giải ngày nay nhìn nhận kecharitōmenē theo cách thuần túy hình thức bên ngoài hoặc chức năng: đề cập đến sự biệt đãi mà Đức Chúa Trời ban cho Ma-ri-a vì sứ mệnh làm Mẹ Chúa Cứu Thế của Maria, chứ không phải điều gì đó hướng đến sự thánh thiện của cá nhân Ma-ri-a. Đây là lý do tại sao kecharitōmenē trong Lu-ca 1:28 đôi khi được dịch là “một người được ưu ái”. Cùng lối diễn giải này, Brown, trong tác phẩm The Birth of the Messiah, cho rằng việc dịch kecharitōmenē là “đầy ân sủng” là “quá mạnh”. Theo Brown, từ này có ý nói đến ân sủng hoặc sự ưu ái vì được chọn làm mẹ của Con Đức Chúa Trời, “ân sủng được thụ thai Con của Đấng Tối Cao.” Sau đó, ông kết luận: “Sự ưu ái của Đức Chúa Trời đã định trước và định hướng trực tiếp đến việc thụ thai sắp xảy ra. Suy đoán về những yếu tố khác có thể có liên quan trong việc Đức Chúa Trời ưu ái Ma-ri-a là nằm ngoài phạm vi quan tâm của Lu-ca . “

Nhưng chúng ta sẽ thấy rằng có những lý do chính đáng để kết luận: trên thực tế, Lu-ca đã có ý định muốn độc giả của mình chú ý đến ân sủng đặc biệt được ban cho Ma-ria. Đối với Lu-ca, ân sủng của Ma-ri-a không chỉ mang tính chức năng mà còn mang tính cá nhân. Nó không chỉ là chuyện Đức Chúa Trời nhìn nhận Ma-ri-a với sự ưu ái, mà còn chỉ ra tác dụng thiêng liêng mà ân sủng này mang lại cho bản thân Ma-ri-a. Chắc chắn, ân sủng này phải được nhìn nhận trong mối quan hệ với ơn gọi độc nhất của Ma-ri-a là Mẹ của Con Thiên Chúa, nhưng điều này không có nghĩa là Lu-ca không quan tâm chút nào đến việc thu hút sự chú ý tới ý nghĩa của ân sủng này tác động trên chính con người Ma-ri-a. Như chúng ta sẽ thấy, thực sự có “lý do để khẳng định Lu-ca quan tâm” đối các đặc ân được ban cho Maria.

Hãy xem xét năm cách mà nhờ đó chúng ta có thể thấy Luca quan tâm đến cá nhân Maria như thế nào.

Những điều chất chứa trong một cái tên

Chúng ta có thể bắt đầu thấy điều này trong cách mà Luca chia từ kecharitōmenē ở thể bị động. Vì động từ bị động thu hút sự chú ý đến kết quả của một hành động trên người nhận, nên việc Luca sử dụng thể bị động ở đây thu hút sự chú ý của người đọc đến kết quả của việc Đức Chúa Trời tác động trên cuộc đời của Ma-ri-a và mời gọi chúng ta suy ngẫm về ý nghĩa của hành động đó đối với Ma-ri-a.

Thứ hai, sứ thần Gáp-ri-en gọi Mary không phải bằng tên riêng của cô ấy, mà bằng từ kecharitōmenē. Do đó, Kecharitōmenē có chức năng như là một tên mới của Ma-ri-a. Và bản thân điều này có ý nghĩa rất quan trọng. Trong Kinh thánh, cái tên bày tỏ bản chất của con người. Vì vậy, kecharitōmenē không chỉ là tên gọi hay tước hiệu dành cho Ma-ri-a. Nó cho chúng ta biết một sự thật quan trọng về việc Ma-ri-a là ai. Ma-ri-a đang được tiết lộ là một người đã và đang tiếp tục được ban ân sủng. Như François Rossier giải thích, “Không có vấn đề gì về thực tại‘ thứ hai ’, một thực tại có thể chạm đến Maria trong thầm kín. Đúng hơn, nó liên quan đến chính danh tính của Mary. “

Cũng vậy, không ai khác trong toàn bộ Kinh thánh được đặt tên là kecharitōmenē. Chỉ có Ma-ri-a được xưng tụng với danh hiệu cao quý này. Vì thế khi Lu-ca 1:28 được đọc dưới ánh sáng của toàn bộ Kinh Thánh, thì rõ ràng là Đức Ma-ri-a trở nên nổi bật trong toàn bộ lịch sử cứu độ, cho thấy ân huệ độc nhất của Đức Chúa Trời ban cho Mẹ. Như Origen đã kết luận: “Vì sứ thần chào mừng Ma-ri-a bằng những cách diễn đạt mới, điều mà tôi chưa từng gặp ở nơi nào khác trong Kinh thánh, nên cần phải chú ý hơn về điều này. Thực ra, tôi không nhớ là đã đọc ở bất kỳ nơi nào khác trong Sách Thánh có câu: Hãy vui mừng, hỡi Đấng đầy ân sủng. Cả hai cách nói này đều không bao giờ được nói với một ai khác: một lời chào đặc biệt như vậy chỉ dành riêng cho Ma-ri-a mà thôi. “

Biến đổi

Thứ ba, kecharitōmenē là một loại động từ trong tiếng Hy Lạp được gọi là động từ nhân quả — thường biểu thị sự thay đổi hoặc biến đổi trên đối tượng tiếp nhận hành động. Do đó, việc Luca sử dụng động từ nhân quả trong 1:28 cho thấy rằng Lu-ca rất có thể lưu tâm đến nhiều điều hơn là việc Đức Chúa Trời nhìn Ma-ri-a với sự ưu ái hay nói cách khác Maria được ưu ái chỉ vì Maria đã được chọn làm Mẹ của Con Đức Chúa Trời. Động từ nhân quả chỉ ra Ma-ri-a đang được tác động một cách cá nhân như thế nào bởi Đức Chúa Trời ban ơn sủng cho Maria. Động từ nhân quả kecharitōmenē gợi ý rằng Ma-ri-a đã được biến đổi bởi ân sủng này.

Thứ tư, và quan trọng nhất, Thư gửi Ê-phê-sô mô tả loại tác động của ân sủng này đối với cuộc sống của con người. Lá thư này là một trường hợp duy nhất khác bên cạnh Luca 1:28 khi động từ charitóô được sử dụng. Động từ này mô tả một sự biến đổi sâu sắc trong tâm hồn. Bài thánh thi mở đầu của Thư gửi tín hữu Ê-phê-sô là một đoạn văn hàm chứa sự cộng hưởng mạnh mẽ về tính cứu độ và giáo hội học.

Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người. Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.. (Ep 1: 5-8)

Hãy chú ý tác động cứu rỗi đối với các tín hữu ở Êphêsô khi họ được ban ơn. Họ được mô tả là nhận được “sự cứu chuộc” và “sự tha thứ cho những lỗi lầm của [họ]” (1: 6-7). Thật vậy, động từ này gắn liền với quyền năng cứu độ, biến đổi của ân sủng khiến các tín hữu trở thành nghĩa tử của Đức Chúa Trời, tức là được cứu chuộc và được tha thứ tội lỗi. Khi được gọi là kecharitōmenē, Ma-ri-a được miêu tả như một người đã trải qua một ân sủng tương tự như những điều mà các tín hữu trong Ê-phê-sô 1: 6 đã trải qua — một người có cuộc sống cứu chuộc và đã trở thành con của Đức Chúa Trời.

Tuy nhiên, một điểm khác biệt quan trọng giữa việc sử dụng động từ này trong Êphêsô 1: 6 và việc sử dụng nó trong Luca 1:28 là Luca sử dụng dạng phân từ hoàn thành, kecharitōmenē, khi nói đến Ma-ri-a — một dạng biểu thị một hành động bắt đầu trong quá khứ và tiếp tục ảnh hưởng của nó trong hiện tại. Do đó, Luca 1:28 không chỉ chú ý rằng Ma-ri-a được biến đổi bởi ân sủng. Luca đang nhấn mạnh cách Ma-ri-a đã được biến đổi bởi ân sủng của Đức Chúa Trời, ngay cả trước khi sứ thần Gáp-ri-en hiện ra với cô trong Lễ Truyền tin. Nói cách khác, Kinh Thánh tiết lộ rằng ân sủng biến đổi sự sống mang lại sự tha thứ tội lỗi và sự cứu chuộc được nhắc đến trong Ê-phê-sô 1: 6-7 là điều mà Ma-ri-a đã nhận được ngay cả trước khi Truyền tin. Như nhà thần học Paul Haffner giải thích, “‘ Kecharitomene ’có hàm ý nhắm tới đối tượng mà mà động từ này liên quan đến, tức là Maria, rằng hành động của ân sủng Đức Chúa Trời đã mang lại một sự thay đổi. . . rằng Đức Ma-ri-a đã được biến đổi bởi ân sủng của Đức Chúa Trời. Phân từ bị động hoàn thành được Lu-ca sử dụng để chỉ rằng sự biến đổi bởi ân sủng đã diễn ra nơi Đức Ma-ri-a, trước cả thời điểm Truyền tin.”

Đấng Đầy Ân sủng

Thứ năm, sứ thần nói với Ma-ri-a: chaire kecharitōmenē — Hãy vui mừng, Đấng đầy ân sủng! Điều này gợi ý rằng ân sủng được nhắc đến trong 1:28 không nên chỉ được coi là ân huệ của tình mẫu tử thiêng liêng, mà là nguyên nhân của niềm vui tự thân. Điều này cũng gợi ý rằng sứ thần nói với Ma-ri-a hãy vui mừng vì Ma-ri-a đã sở hữu một ân sủng độc nhất — một ân sủng được ban cho trước khi Ma-ri-a bắt đầu vai trò làm Mẹ của Con Đức Chúa Trời và trước khi đặc ân làm mẹ được nhắc đến.

Do đó, không có gì ngạc nhiên khi Giáo hội trong suốt nhiều thế kỷ đã sử dụng câu Kinh thánh này khi thảo luận về sự Vô nhiễm Nguyên tội của Đức Maria — giáo lý rằng Đức Maria được thụ thai “đầy ân sủng,” không mắc Nguyên tội. Mặc dù từ kecharitōmenē sẽ không đủ chứng minh một cách dứt khoát học thuyết này – (nó không có nghĩa là “bạn đã được thụ thai đầy ân sủng”) – nó thực sự chỉ ra món quà ân sủng độc nhất mà Đức Chúa Trời ban cho Đức Maria khi chuẩn bị cho Mẹ cưu mang Con của Đức Chúa Trời trong cung lòng và một món quà mà Ma-ri-a đã sở hữu ngay cả trước khi sứ thần xuất hiện (“cô là người đã được ban ơn”). Bằng cách này, lời chào của thiên thần với Mary bằng từ kecharitōmenē cung cấp một cách nhìn sâu sắc hướng đến món quà ân sủng hoàn toàn độc đáo và thẳm sâu trong tâm hồn Ma-ri-a. Đức Chúa Trời ban phúc cho Maria bằng ân sủng của Ngài theo cách mà chưa một con người nào có được trước đây khi Ngài chuẩn bị cho Ma-ri-a trở thành Mẹ của Con Đức Chúa Trời.

Duc Trung Vu, CSsR

Chuyển dịch theo cuốn “Rethinking Mary in the New Testatement.”

……………..

Đọc Thêm:

(1) Đức Maria trong Tân Ước (1): Cuộc đời của Maria trước khi xảy ra biến cố Truyền tin (Lu-ca 1: 26-27)

(2) Đức Maria trong Tân Ước (2): “Mừng vui lên!” – Ma-ri-a trong tư cách là thiếu nữ Xi-on (Lc 1,28)