MẸ TÊRÊSA CALCUTTA
HY VỌNG, ĐAU KHỔ VÀ NIỀM VUI: HỌC CÁCH BƯỚC ĐI CÙNG MẸ MARIA
“Hãy giữ ngọn lửa niềm vui khi yêu mến Chúa Giêsu luôn rực cháy trong trái tim con, và chia sẻ niềm vui ấy với mọi người.”[1]
— Mẹ Têrêsa
Cuộc sống đôi khi giống như một cuộc phiêu lưu đầy bất ngờ! Trong nhiều giai đoạn của đời sống, từ ngày này sang ngày khác, chúng ta có thể cảm thấy như đang bị đẩy vào một cuộc hành trình bấp bênh mà không lường trước được. Hoặc có thể chúng ta vẫn luôn chờ đợi một điều gì đó sẽ xảy ra, khiến mình lo lắng hoặc mất kiên nhẫn. Nhưng niềm vui có ý nghĩa gì trong cuộc sống chúng ta? Đôi khi, chúng ta cảm thấy thật khó để nhận ra niềm vui trong đời sống hằng ngày. Cuộc lữ hành Đức Tin của chúng ta có thể gian nan, nhưng sự thật là: Niềm vui phải luôn ngự trị trong trái tim chúng ta! Nó phải giữ một vị trí quan trọng trong cuộc đời mỗi người! Nhưng làm thế nào để chúng ta tìm thấy một niềm vui thánh thiện và trọn vẹn ngay giữa những thử thách? Hãy để Mẹ Maria, Mẹ Têrêsa và một vị thánh đang trên đường nên thánh soi sáng chúng ta.
SUY NIỆM
Niềm vui là một món quà cao quý, và nó được trao ban để sẻ chia. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui. Mẹ Têrêsa thường kết thúc mỗi lá thư gửi tôi bằng một lời nhắn nhủ mạnh mẽ và khích lệ. Tôi đã trích dẫn một trong những lời dạy của Mẹ trong câu nói hôm nay: “Hãy giữ ngọn lửa niềm vui khi yêu mến Chúa Giêsu luôn rực cháy trong trái tim con, và chia sẻ niềm vui ấy với mọi người.” Vị nữ tu bé nhỏ này luôn xác tín rằng: Yêu mến Chúa Giêsu chính là sống trong niềm vui.
Niềm vui phải là một phần trong cuộc hành trình thiêng liêng của chúng ta. Điều này dường như càng thích hợp hơn khi chúng ta tiến gần đến phần cuối của cuốn sách này, nơi chúng ta cùng nhau chiêm ngắm Mẹ Maria như một Lữ Khách của Niềm Hy Vọng. Vậy nên, chúng ta cũng nên suy ngẫm về món quà của niềm vui, và cách mà niềm vui hòa quyện trong hành trình Đức Tin, như một phần thiết yếu của đời sống Kitô hữu.
Mẹ Têrêsa nói: “Lời cầu nguyện mỗi ngày của chúng ta nên là, ‘Xin cho niềm vui của Chúa là sức mạnh của con.’ Niềm vui và sự vui tươi là sức mạnh của Đức Mẹ. Mẹ giải thích: “Chỉ có niềm vui mới có thể giúp Mẹ có sức mạnh để vội vã đi qua những ngọn đồi của xứ Giuđêa đến với người chị họ Elizabeth, để làm công việc của người nữ tỳ.” “Nếu chúng ta muốn thực sự là những nữ tỳ của Chúa, thì chúng ta cũng phải mỗi ngày vội vã bước đi một cách vui vẻ dù đối diện với bao gian khó.”[2]
Đây chính là những gì chúng ta biết về Mẹ Maria, sau khi Mẹ đồng ý làm nữ tỳ của Chúa qua lời Fiat (xin vâng) tuyệt vời của Mẹ, tuyên bố sẽ là Mẹ Thiên Chúa, ngay sau khi Thiên Thần Gabriel chào đón Mẹ với sứ điệp tuyệt vời đó. Chúng ta đã bàn về những khoảnh khắc đẹp đẽ của Lễ Truyền Tin và Thăm Viếng ở phần trước của cuốn sách này.
Niềm Vui Là Gì?
Điều quan trọng cần ghi nhớ là chúng ta sẽ không phải lúc nào cũng cảm thấy vui, đặc biệt là khi chúng ta đang trải qua những thời điểm thử thách. Không sao cả nếu bạn không cảm nhận được niềm vui mọi lúc. Tuy nhiên, hãy để tôi làm rõ: Niềm vui không giống với hạnh phúc, thứ mà đôi khi chúng ta có thể tìm thấy (chẳng hạn, bằng cách thưởng thức một món tráng miệng đặc biệt, theo đuổi sở thích, xem một bộ phim hay, hoặc dành thời gian bên người bạn thân, người thân yêu, v.v.). Niềm vui là một thứ sâu sắc hơn và ý nghĩa hơn rất nhiều.
Điều đó bởi vì niềm vui thực sự là một hoa trái của Chúa Thánh Thần, phát sinh từ những ân sủng của Ngài. Niềm vui chắc chắn có thể ngự trị trong trái tim chúng ta dù đang trải qua nỗi đau hay nỗi buồn—một niềm vui thánh thiện và hy vọng, có thể nhận được khi biết rằng một điều gì đó tốt đẹp hơn đang chờ đợi—cuộc sống vĩnh cửu sau những thử thách và khổ đau. Hơn nữa, niềm vui có thể lấp đầy trái tim chúng ta khi chúng ta biết rằng những thời khắc khó khăn và buồn đau thực sự có thể dâng lên cho Chúa Giêsu và kết hợp chúng vào cuộc Khổ Nạn của Ngài để cứu chuộc chúng cho vinh quang của Chúa và cho sự tốt lành của các linh hồn.
Niềm vui, một hoa trái của Chúa Thánh Thần, có một vai trò vô cùng quan trọng đối với vị thánh vĩ đại của những khu ổ chuột. Mẹ Têrêsa coi trọng niềm vui đến mức Mẹ đã đưa nó vào Hiến pháp Dòng Thừa Sai Bác Ái, trong đó quy định rằng: “Một tinh thần vui tươi phải thấm nhuần vào đời sống hằng ngày của các tập sinh, và họ nên được khuyến khích xem việc lan tỏa niềm vui này như một phần thiết yếu trong sứ vụ tông đồ của họ” (Khoản 203).
Hãy suy ngẫm về điều này. Đây không chỉ là một hướng dẫn quan trọng, mà còn là một chỉ dẫn cốt yếu dành cho các nữ tu của Mẹ Têrêsa—và cả cho chúng ta!
Bởi vì niềm vui là một trong những hoa trái quan trọng của Chúa Thánh Thần, và vì những người nghèo khổ, bất hạnh cần được yêu thương và chăm sóc với tất cả lòng nhân ái, nên Mẹ Têrêsa luôn nhấn mạnh rằng các nữ tu của Mẹ phải có một tâm hồn vui tươi. Bằng cách đó, họ sẽ không vô tình truyền đi sự buồn bã hoặc khó chịu của mình cho những người họ chăm sóc. Những người nghèo không cần phải nhận thêm gánh nặng từ một nữ tu thiếu đi hoa trái đặc biệt của Chúa Thánh Thần.
Đau Khổ và Niềm Vui Đan Xen
Mỗi lần có cơ hội được nhìn vào đôi mắt rạng ngời của Mẹ Têrêsa, tôi đều cảm nhận được niềm vui lan tỏa từ Mẹ. Tôi chỉ biết được sau khi Mẹ qua đời rằng, dù Mẹ đã sống một cuộc đời hoàn toàn quên mình, tỏa sáng một niềm vui thánh thiện và tinh tuyền, nhưng đồng thời, Mẹ cũng phải chịu đựng một nỗi đau sâu thẳm trong 50 năm “đêm tối đức tin”. Dù niềm vui của Chúa Giêsu chiếu sáng qua Mẹ, nhưng điều đó không có nghĩa là Mẹ không đau đớn. Sự thống khổ sâu xa nhất của Mẹ Têrêsa chính là cảm giác bị Thiên Chúa bỏ rơi hoàn toàn. Nhưng không! Niềm vui bừng sáng từ Mẹ vẫn chói lọi như những tia nắng mặt trời!
Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Dù Mẹ Têrêsa cảm nhận sự bỏ rơi đó, nhưng tâm hồn Mẹ vẫn vững tin vào Chúa. Mẹ không bao giờ từ bỏ Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã để Mẹ cảm nhận nỗi đau bị bỏ rơi— nỗi đau mà chính Ngài đã chịu khi bị treo trên Thánh Giá, khao khát các linh hồn và chịu chết để cứu độ chúng ta. Chúng ta có thể suy ngẫm về một sự thật: Chúa Giêsu thường để những người Ngài yêu thương được tham dự vào cuộc khổ nạn của Ngài, để họ có thể cảm nghiệm và chịu đựng một phần nỗi thống khổ mà chính Ngài đã trải qua.
Lúc này, tôi cũng nghĩ đến Thánh Faustina. Ngài cũng được ban ơn nếm trải Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Dù Thánh Faustina đã phải chịu đau khổ sâu sắc trong đời sống thiêng liêng, trải qua hai “đêm tối đức tin”, nhưng ngài đã vui vẻ dâng hiến tất cả cho Chúa Giêsu. Và theo thời gian, ngài đã hoàn toàn nên một cách huyền nhiệm với Ngài.
Có một lần, vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Thánh Faustina đã nghe tiếng Chúa Giêsu kêu gọi từ Thánh Giá, nói về cơn khát cứu rỗi các linh hồn. Vị thần bí trẻ ấy đã dâng chính mình cho Chúa Giêsu trên Thánh Giá.
Tôi sẽ để chính Thánh Faustina nói với bạn về điều này. Ngài đã ghi lại trong Nhật Ký của mình:
Lúc ba giờ chiều, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Người nhìn tôi và nói: “Ta khát.” Rồi tôi thấy từ cạnh sườn Người tuôn ra hai luồng sáng, giống như trong bức ảnh. Khi ấy, tôi cảm nhận trong tâm hồn mình một khao khát mãnh liệt muốn cứu các linh hồn và hiến dâng chính mình vì phần rỗi của các tội nhân khốn cùng. Tôi đã tự hiến dâng mình, cùng với Chúa Giêsu hấp hối, lên Chúa Cha hằng hữu để cứu độ toàn thế giới.[3]
Mỗi khi tôi có cơ hội ở bên Mẹ Têrêsa hoặc các Nữ tu Thừa sai Bác ái của Mẹ, tôi cảm nhận được một niềm vui sâu xa, rõ ràng và tràn đầy. Không có gì phải nghi ngờ cả—chỉ cần nhìn thấy họ làm việc là đủ để cảm nhận niềm vui vô tận trong trái tim họ. Nhưng họ không giữ hồng ân này cho riêng mình. Không! Họ vui vẻ trao ban nó trong sự phục vụ yêu thương dành cho tha nhân—thường là những người khốn khổ nhất, những hoàn cảnh bi đát nhất—rửa vết thương, cho kẻ đói ăn, kéo những con người gần như đã chết ra khỏi rãnh nước, và còn nhiều hơn thế nữa.
Mẹ Têrêsa cũng cảm nhận sâu sắc về nạn đói ở thế giới phương Tây—không chỉ là đói khát thể xác mà còn là cơn đói của cô đơn, bị bỏ rơi và không được yêu thương. Đón nhận Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể đã ban cho họ sức mạnh tuyệt đối cần thiết, lòng can đảm và niềm vui để mỗi ngày tiến bước trong đức tin—để phục vụ Chúa Giêsu nơi những người khác.
Tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân cao cả của Bí tích Thánh Thể—phép lạ của Chúa Giêsu! —Người yêu thương chúng ta đến nỗi tự hạ mình để ở lại với chúng ta trong hình bánh, để nuôi dưỡng và chữa lành chúng ta bằng tình yêu của Người.
Mẹ Têrêsa, người luôn gần gũi với Đức Mẹ, đã giải thích cách Mẹ Maria cảm tạ Thiên Chúa qua bài Magnificat. Mẹ nói:
“Bài Magnificat là lời cầu nguyện tạ ơn của Đức Mẹ. Mẹ có thể giúp chúng ta yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn; Mẹ chính là người có thể chỉ cho chúng ta con đường ngắn nhất đến với Người. Chính Mẹ đã chuyển cầu để Chúa Giêsu thực hiện phép lạ đầu tiên. ‘Họ không còn rượu nữa,’ Mẹ nói với Chúa Giêsu. ‘Hãy làm theo lời Người bảo,’ Mẹ dặn các gia nhân. Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ bằng lòng yêu mến và tín thác.”[4]
Đồng hành cùng Đức Mẹ
Mẹ Têrêsa yêu thương thúc giục chúng ta tiến bước cùng Đức Maria—bước đi với lòng yêu mến và tín thác vào Mẹ. Khi điều hành hội dòng và phục vụ những người nghèo khổ nhất trên khắp thế giới, Mẹ Têrêsa mỗi ngày đều cậy trông vào Đức Mẹ. Mẹ cầu nguyện sốt sắng và hoàn toàn tín thác nơi Mẹ Maria để tâm hồn mình được biến đổi.
Mẹ Têrêsa thậm chí đã thương lượng một lệnh ngừng bắn với Đức Mẹ! Tôi đã kể chi tiết điều này trong cuốn sách Những điều nhỏ bé với tình yêu lớn: Tuần cửu nhật 9 ngày với Mẹ Têrêsa, Vị thánh của những người bị bỏ rơi. Sự kiện diễn ra vào năm 1982, trong cuộc chiến ở Li-băng. Một trăm trẻ em khuyết tật và đau yếu bị bỏ rơi trong một trại mồ côi tại Beirut vì nơi đó đã bị bom phá hủy. Nhưng bom đạn và chiến tranh không làm Mẹ sợ hãi. Việc những đứa trẻ bị bỏ rơi chính là một tiếng gọi thánh thiêng thúc đẩy vị Thánh khiêm nhường của những người bị bỏ rơi hành động. Như tôi đã đề cập, Mẹ thực sự đã sắp xếp một lệnh ngừng bắn nhờ sự chuyển cầu của Đức Mẹ, để có thể cứu các em nhỏ! Điều này diễn ra ngay trước ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Mẹ Têrêsa đã đón nhận tất cả các em và đưa chúng đến một khu dân cư Công giáo ở Beirut. Chúng ta có thể tưởng tượng những cái ôm và nụ cười rạng rỡ của các em khi được ở trong vòng tay yêu thương của Mẹ!
Qua Mẹ Têrêsa, tôi học được cách Mẹ dâng lên Đức Mẹ một lời cầu cứu khẩn cấp. Khi cần thiết, Mẹ và các chị em trong dòng đọc một tuần cửu nhật đặc biệt. Tuần cửu nhật này gồm 10 lần kinh Memorare liên tiếp—chín lần cho tuần cửu nhật và lần thứ mười để tạ ơn, bất kể kết quả ra sao. Tôi đã nhiều lần cầu nguyện theo cách này. Bạn cũng có thể làm vậy! Và nó thực sự hiệu nghiệm!
Chúng ta cũng có thể đọc lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa dâng lên Đức Maria:
“Lạy Mẹ Maria, con hoàn toàn cậy trông vào Mẹ như một đứa trẻ nép mình bên Mẹ, để rồi trong ân sủng của Mẹ, Mẹ có thể chiếm trọn con, bảo vệ con và biến đổi con nên giống Chúa Giêsu. Nguyện ánh sáng đức tin của Mẹ xua tan bóng tối trong tâm trí con; nguyện sự khiêm nhường sâu thẳm của Mẹ thay thế sự kiêu ngạo của con; nguyện sự chiêm niệm của Mẹ thay thế những xao lãng do trí tưởng tượng lang thang của con; và nguyện các nhân đức của Mẹ lấp đầy nơi tội lỗi của con. Xin dẫn con đi sâu hơn vào mầu nhiệm Thánh giá, để con có thể chia sẻ nỗi khát khao của Chúa Giêsu với Mẹ.”[5]
Mẹ Têrêsa thường nhắc rằng niềm vui chính là một mạng lưới tình yêu linh thánh, có thể chinh phục các linh hồn. Mẹ nói đúng! Hoa trái của niềm vui lan tỏa mãnh liệt—giống như một lực hút thánh thiêng, lôi kéo chúng ta đến gần. Và chứng tá sống động đầy nhân đức của Mẹ Têrêsa cùng các chị em trong dòng đã đong đầy tâm hồn chúng ta một niềm hy vọng lớn lao.
Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
Tôi muốn giới thiệu với bạn một người sẽ chạm đến trái tim bạn. Bạn đã từng nghe về Hồng y Nguyễn Văn Thuận chưa? Tôi muốn kể cho bạn về ngài. Tôi cảm thấy thật quan trọng khi đưa ngài vào cuốn sách này, một cuốn sách nói về niềm hy vọng thánh thiêng. Ngài là người mà tôi vô cùng ngưỡng mộ và là nguồn cảm hứng sâu sắc đối với tôi.
Hồng y Văn Thuận sinh năm 1928 tại Việt Nam. Gia đình ngài là những người Công giáo trung kiên, đã trải qua biết bao đau khổ tưởng chừng không thể chịu đựng nổi.
Ngài bị bắt giam khi Sài Gòn thất thủ vào tay quân đội miền Bắc vào ngày 15 tháng 8 năm 1975, đúng vào lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Vì luôn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, ngài xem việc bị bắt vào ngày này là một dấu chỉ đặc biệt. Trong những năm tháng tù đày, Đức Mẹ trở thành người bạn đồng hành không rời của Hồng y Văn Thuận, nâng đỡ ngài trong những thử thách gian nan và giúp ngài tìm thấy ý nghĩa trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy.
Hồng y Văn Thuận đã chịu nhiều đau khổ trong 13 năm bị giam cầm, trong đó có 9 năm bị biệt giam. Tuy nhiên, hãy quay lại một chút để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của ngài.
Trước khi bị bắt giam một cách bất công, vào năm 1945, khi còn là chủng sinh, chú của ngài là ông Khôi và con trai đã bị xử tử. Sau đó, vào năm 1963, hai người chú khác của ngài, ông Diệm và ông Cẩn, cũng bị sát hại. Những mất mát ấy, cùng với cách mà chúng xảy ra, đã trở thành thử thách lớn lao đối với ngài. Nhưng nhờ gương sáng thánh thiện của mẹ mình, Hồng y Văn Thuận đã học được cách tha thứ cho những kẻ đã giết hại gia đình mình.
Một yếu tố quan trọng khác trong đời sống thiêng liêng của ngài, xảy ra trước khi bị giam cầm, chính là cuộc hành hương đặc biệt mà ngài quyết định thực hiện vào năm 1957 khi đang du học tại Rôma. Ngài đã đến thăm Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức. Tại nơi linh thiêng này, nơi Đức Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette, ngài đã suy niệm sâu sắc về lời Đức Trinh Nữ phán với thánh nữ: “Ta không hứa ban cho con niềm vui và sự an ủi trên thế gian này, mà là những thử thách và đau khổ.”
Hồng y Văn Thuận đã ghi khắc những lời này vào lòng mình, đón nhận chúng và tin rằng Đức Mẹ cũng đang nói với chính ngài. Ngài đã được ban một ơn đặc biệt để nhận ra điều này. Khi ấy, ngài chân thành thưa với Đức Mẹ: “Nhân danh Con của Mẹ và nhân danh chính Mẹ, lạy Mẹ Maria, con xin đón nhận những thử thách và đau khổ.”[6]
Hồng y Văn Thuận đã được mời gọi bước vào một đời sống đức tin sâu xa hơn, chấp nhận đau khổ và được ban những ơn lành để hiểu được ý nghĩa của những thử thách ấy. Ngài có thể phớt lờ tiếng gọi này, có thể trở nên cay đắng trước hoàn cảnh của mình, hoặc hoàn toàn từ chối kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng nhờ sự trung thành và sự cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa, câu chuyện của ngài đã trở thành một chứng tá phi thường về niềm hy vọng, truyền cảm hứng cho đời sống của chúng ta.
Sau một thời gian dài bị giam cầm, Hồng y Văn Thuận cảm thấy mình trở nên vô dụng vì không thể trực tiếp chăm sóc đoàn chiên của mình. Ngài nói: “Trái tim tôi tan nát khi bị tách khỏi dân Chúa.”[7] Bởi vì đó chính là ơn gọi của ngài. Ngài cảm thấy mình hoàn toàn bất lực.
Dù ngài không thích nhắc lại những thực tế khắc nghiệt của những năm tháng lao tù, sau này ngài đã chia sẻ: “Những năm tháng tù đày trôi qua rất chậm. Nhưng giữa bao tủi nhục và bị bỏ rơi, nguồn an ủi và hy vọng duy nhất của tôi chính là tình yêu của Đức Mẹ, Mẹ Chí Thánh của chúng ta.”[8] Về sau, Hồng y Văn Thuận đã viết ra điều mà ngài gọi là “Mười Quy Tắc Sống.” Một trong những quy tắc ấy là: “Tôi sẽ có một tình yêu đặc biệt: Đức Trinh Nữ Maria.”
Ôm lấy Thập giá
Nhiều lúc, Hồng y Văn Thuận hầu như không thể thốt lên một lời cầu nguyện (dù những lời ấy tuôn trào từ trái tim ngài). Đôi khi, ngài thậm chí còn khó thở trong căn phòng nhỏ bé, tối tăm và ẩm thấp, nơi ngài bị biệt giam. Ngài thường quỳ xuống, áp sát mũi vào khe cửa nhỏ phía dưới để cố hít thở chút không khí.
Giữa những đau khổ ấy, khi hướng lòng mình lên Thánh Giá của Chúa Kitô, Hồng y Văn Thuận dần nhận ra rằng những năm tháng tù đày là một cơ hội đặc biệt để lãnh nhận ân sủng, một dịp không thể sánh được để dâng hiến những đau khổ của mình lên Thiên Chúa vì phần rỗi các linh hồn.
Nhìn bề ngoài, Chúa Giêsu cũng có vẻ như vô dụng khi Người chịu đóng đinh trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Nhưng với ân sủng Thiên Chúa và sự trợ giúp của Mẹ Maria, Hồng y Văn Thuận đã nhận ra rằng những ngày tháng tưởng chừng vô tận trong tù không phải là vô nghĩa—đó chính là con đường hy vọng, một hành trình dẫn đến niềm hy vọng. Ngài không hề vô ích. Ngài cũng nhớ đến những vị thánh có lòng sùng kính Đức Mẹ, những vị mà gương sáng của họ đã thôi thúc ngài tiếp tục tiến bước với niềm tin mạnh mẽ, và luôn nhắc nhở ngài về tình yêu và sự bảo trợ của Mẹ Maria.
Những tôi tớ trung thành của Đức Mẹ—thánh Louis de Montfort, thánh Gioan Bosco và thánh Maximilian Kolbe—trở thành những người đồng hành của ngài trên hành trình hy vọng. Chính họ đã truyền cảm hứng và củng cố niềm tín thác vững vàng của ngài vào tình yêu của Đức Mẹ, Nữ Vương các Tông đồ và các Thánh Tử đạo.
Nhờ ân sủng Thiên Chúa và sự cộng tác của Hồng y Văn Thuận với ân sủng ấy, ngài đã làm được những điều phi thường ngay cả trong những ngày đen tối nhất. Ngài quyết tâm sống trọn giây phút hiện tại, hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, bất kể mình có được trả tự do hay không. Dù thế nào đi nữa, ngài chưa bao giờ từ bỏ niềm hy vọng và luôn sẵn sàng thực thi điều mà Thiên Chúa muốn nơi mình.
Ngài cũng cảm nhận được rằng dân Chúa đang cần đến mình. Hồng y Văn Thuận tìm thấy động lực để tiếp tục gắn kết với họ, giống như cách thánh Phaolô đã làm khi bị giam cầm. Ngài quyết tâm noi gương thánh Phaolô.
Hồng y Văn Thuận đã nghĩ ra cách ghi chép những suy niệm đầy cảm hứng lên những mảnh giấy nhỏ và bí mật chuyển ra ngoài nhờ sự giúp đỡ của một cậu bé và mẹ của em. Những mẩu giấy này sau đó đã được tập hợp lại thành cuốn sách Đường Hy Vọng. Không những thế, ngài còn dạy một trong những lính canh hát thánh ca bằng tiếng Latinh! Sau này, một số lính canh có thiện cảm với ngài đã lén chuyển cho ngài một mẩu gỗ nhỏ và một đoạn dây thép để ngài có thể làm thành một cây thánh giá. Việc này hoàn toàn vi phạm quy định và tiềm ẩn rủi ro vô cùng lớn. Nhưng Thiên Chúa đã mở đường.
Dù tất cả những điều trên đều thật phi thường, nhưng có lẽ điều quan trọng hơn cả là cách Hồng y Văn Thuận đã cử hành Thánh lễ ngay trong thời gian bị biệt giam.
Thánh lễ trong âm thầm
Chỉ với một mẩu bánh nhỏ, ba giọt rượu và một giọt nước đặt trên lòng bàn tay, Hồng y Văn Thuận đã đọc lời Truyền phép, và nhờ ân sủng Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã hiện diện trong căn phòng tù tăm tối. Ngài có thể bí mật truyền phép bánh và rượu, dù chỉ với số lượng rất ít, để trở thành Mình và Máu, Linh hồn và Thần tính của Chúa Kitô, thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Điều này quả là một nguồn cảm hứng sâu xa.
Hồng y Văn Thuận không chỉ tài trí mà còn vô cùng linh hoạt. Ngài xin được “thuốc” để chữa chứng đau dạ dày, và gia đình ngài ngay lập tức hiểu rằng ngài đang ám chỉ rượu lễ. Họ đã chuyển cho ngài một chai nhỏ có nhãn “thuốc”. Họ cũng lén chuyển những bánh lễ chưa được truyền phép bằng cách giấu trong một chiếc đèn pin. Khi có hai yếu tố này, ngài có thể cử hành Thánh lễ ngay trong căn phòng tù ngột ngạt của mình. Việc cử hành Thánh lễ và được rước Chúa trong Bí tích Thánh Thể đã nâng đỡ vị Hồng y khiêm nhường qua những thời khắc đen tối nhất. Sau một thời gian, ngài còn có thể bí mật trao Mình Thánh Chúa cho các tù nhân khác và sau đó là cả người dân trong vùng.
Ngày qua ngày, tình yêu Kitô giáo nồng nhiệt và niềm vui Thánh Thể của Hồng y Văn Thuận đã cảm hóa cả tù nhân lẫn lính canh. Vì điều này, ngài thường bị chuyển đến các trại giam khác hoặc bị biệt giam, và những người canh gác cũng liên tục bị thay đổi. Nhưng điều đó không ngăn cản Thiên Chúa tiếp tục thực hiện công trình của Ngài qua vị Hồng y thánh thiện này.
Chắc chắn rằng, Đức Mẹ vẫn luôn giúp ngài nâng đỡ những người khác và gieo rắc niềm hy vọng thánh thiêng. Người dân địa phương trở thành đồng minh của ngài, và mạng lưới chỉ điểm của cộng sản trong làng bị phá vỡ hoàn toàn. Hồng y Văn Thuận đã được Thiên Chúa sử dụng để thực hiện nhiều điều lớn lao! Tình yêu Kitô giáo của ngài đã mang lại hy vọng ngay cả trong những hoàn cảnh tuyệt vọng nhất, như khi ngài giúp một người đàn ông có ý định tự tử từ bỏ ý định đó.
Suốt những năm dài trong tù, Hồng y Văn Thuận hoàn toàn phó thác vào thánh ý Thiên Chúa, vì ngài tin rằng chỉ một mình Thiên Chúa biết điều gì là tốt nhất cho cuộc đời ngài. Ngài tín thác vào Thiên Chúa trong từng giây phút. Dù từng được báo rằng sẽ không bao giờ được trả tự do, ngài vẫn một lòng trông cậy vào Chúa và cậy nhờ sự trợ giúp của Đức Mẹ, bằng lòng với mọi điều Chúa muốn nơi ngài.
Đức Mẹ sắp đặt phép lạ
Một ngày nọ, Hồng y Văn Thuận đã cầu nguyện với Mẹ Maria trên trời:
“Lạy Mẹ Maria, nếu Mẹ biết rằng con không còn có ích gì cho Giáo Hội nữa, xin ban cho con ơn được chết trong tù để hoàn tất hy lễ của mình. Nhưng nếu con vẫn có thể phục vụ Giáo Hội, xin ban cho con ơn được trả tự do vào một ngày lễ của Mẹ.”
Bạn có thể nhớ rằng ngài đã bị bắt vào đúng một ngày lễ kính Đức Mẹ.[9]
Vào ngày 21 tháng 11 năm 1988, khi Hồng y Văn Thuận đang chuẩn bị bữa ăn, ngài nghe thấy tiếng điện thoại reo. Ngài có linh cảm mạnh mẽ rằng có điều gì đó liên quan đến mình sắp xảy ra. Ngài bị đưa đến gặp Bộ trưởng Bộ Công an, và điều bất ngờ là vị bộ trưởng hỏi ngài có điều gì muốn thỉnh cầu không.
Ngài điềm nhiên trả lời: “Tôi muốn được tự do.”[10]
Viên chức nhà nước kinh ngạc và hỏi lại: “Khi nào ông muốn được thả?”
“Hôm nay.” Hồng y Văn Thuận đáp một cách đơn giản.
Vị Bộ trưởng vô cùng sửng sốt trước câu trả lời thẳng thắn nhưng đầy chân thật ấy. Nhìn thấy vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt ông ta, Hồng y Văn Thuận bình tĩnh nói:
“Thưa ông Bộ trưởng, tôi đã bị giam suốt triều đại của ba Đức Giáo Hoàng: Phaolô VI, Gioan Phaolô I, Gioan Phaolô II. Tôi cũng đã chứng kiến bốn đời Tổng Bí thư Đảng Cộng sản: Brezhnev, Andropov, Chernenko và Gorbachev.”[11]
Với câu nói ấy, yêu cầu của ngài lập tức được chấp nhận, một cách kỳ diệu! Và điều tuyệt vời hơn, ngài được trả tự do đúng vào ngày lễ Đức Mẹ Dâng Mình Trong Đền Thánh—cũng là ngày kỷ niệm 63 năm hôn phối của cha mẹ ngài!
Thánh Ý Chúa: Con Đường Hy Vọng
Sau khi được trả tự do, Hồng y Văn Thuận không ngừng dấn thân phục vụ những người bị gạt ra bên lề xã hội và những ai chịu áp bức. Ngài đến thăm các cộng đoàn người Việt, chia sẻ những trải nghiệm của mình và khích lệ họ trên hành trình đức tin. Hơn hết, cuộc đời chứng tá của ngài tràn đầy niềm hy vọng.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm ngài vào Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình. Sau này, Hồng y Văn Thuận trở thành chủ tịch của hội đồng này. Ngài luôn dạy rằng những thử thách trong cuộc sống chính là con đường dẫn đến sự thánh thiện. Ngài đã viết nhiều cuốn sách tôn giáo bán chạy nhất, trong đó có Đường Hy Vọng, được phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới. Trong cuốn sách này, ngài đã viết: “Thiên Chúa dùng những thử thách và đau khổ để dạy chúng ta biết cảm thông và kiên nhẫn hơn trước nỗi đau của người khác.”[12]
Năm 2001, ngài được vinh thăng Hồng y, trở thành một Hoàng tử của Giáo Hội. Lúc ấy, ngài đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Sau đó, ngài an nghỉ trong bình an vào ngày 16 tháng 9 năm 2002—một người lữ hành đích thực của niềm hy vọng.
Vào ngày 4 tháng 5 năm 2017, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tuyên bố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là Bậc Đáng Kính của Thiên Chúa. Như vậy, tiến trình phong chân phước cho ngài đã chính thức được mở và đang được điều tra.
Tôi muốn để lại cho bạn một lời cầu nguyện đầy cảm hứng mà Hồng y Văn Thuận đã viết khi còn trong tù:
“Con ca tụng lòng thương xót của Chúa giữa bóng tối, trong sự yếu đuối và cả khi con tưởng mình chẳng còn gì. Con đón nhận Thánh Giá của mình và tự tay trồng nó vào tận sâu trong trái tim con. Nếu Chúa để con chọn lựa, con cũng sẽ không thay đổi điều gì, vì Chúa ở cùng con! Con không còn sợ hãi nữa, con đã hiểu. Con đang bước theo Chúa trong cuộc Thương Khó và trong sự Phục Sinh của Người.”[13]
THỰC HÀNH
Hãy dành thời gian suy ngẫm về cuộc đời mình. Bạn có phải là một người luôn vui tươi không? Hãy tự hỏi bản thân xem bạn có thể phát triển thêm điều này không. Nếu có thể, hãy dành một khoảng thời gian gần nhất để hiện diện với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, trong những giây phút chầu Thánh Thể. Hãy luôn cố gắng hiện diện với Chúa dù bạn đang ở đâu. Hãy tĩnh lặng tâm hồn, nhắm mắt lại và cầu nguyện, suy niệm về những trải nghiệm và cuộc gặp gỡ trong đời mình.
Đã bao giờ bạn được chạm đến cách đặc biệt bởi niềm vui trong sáng của ai đó chưa? Có bao giờ bạn mang lại niềm vui cho người khác chưa? Hay đã có lần bạn có thể chọn hành động trong niềm vui nhưng lại phản ứng theo cách tiêu cực? Hãy suy ngẫm về những điều này như một cuộc xét mình. Dành thời gian để chiêm nghiệm và đưa ra quyết tâm thay đổi theo hướng tốt hơn.
Hãy cầu xin Chúa Giêsu chữa lành những vết thương trong tâm hồn bạn. Những tổn thương này có thể gây ra đau khổ, đôi khi bạn không nhận ra. Chúng có thể cản trở hành trình thiêng liêng của bạn. Hãy suy ngẫm về những lần bạn đã bị tổn thương bởi người khác. Hãy cầu xin ơn để tha thứ cho những người đã làm tổn thương bạn. Điều này không có nghĩa là bạn chấp nhận tội lỗi của họ, nhưng với ơn Chúa và sự cộng tác của bạn, bạn có thể tha thứ và cũng có thể xin được tha thứ. Khi đó, tâm hồn bạn sẽ tràn ngập sự bình an.
Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần và xin ơn vui tươi ngự trị trong tâm hồn bạn. Hãy cố gắng trở thành một người trao ban niềm vui. Hãy dâng những đau khổ của mình lên Chúa Giêsu và xin Người biến đổi chúng thành phương tiện thánh hóa cho chính bạn và những người khác.
Hãy dấn thân phục vụ, không phải với sự miễn cưỡng, nhưng với niềm vui, nhờ sự trợ giúp của Đức Mẹ, Thánh Mẹ Têrêsa Calcutta và Đấng Đáng Kính Hồng y Văn Thuận. Khi đó, bạn sẽ trở thành một nhà truyền giáo của niềm hy vọng, mang ánh sáng của Chúa đến với thế giới hôm nay.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, xin chữa lành con.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến trợ giúp con.
Xin giúp con được trổ sinh hoa trái của niềm vui trong tâm hồn.
Hãy đọc lời cầu nguyện “Lạy Chúa Thánh Thần”
Lạy Thánh Gia, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, xin chúc lành và cầu bầu cho con. Thánh Têrêsa Calcutta và Đấng Đáng Kính Hồng y Văn Thuận, xin cầu cho con.
Lạy Đức Maria rất thánh, Đức Mẹ Champion, xin dập tắt những “ngọn lửa” đang tìm cách tấn công con. Xin giúp con trở thành một chứng nhân sống động và một người giảng dạy Đức Tin chân thành.
Lạy Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, Mẹ của Lòng Thương Xót và Hy Vọng, con cảm tạ Mẹ vì đã là Mẹ của con.
Lạy Cửa Thiên Đàng, xin củng cố nơi con các nhân đức đức tin, cậy trông và mến yêu.
Lạy Đấng Ngự Tòa Khôn Ngoan, xin tuôn đổ muôn ân sủng xuống trên con.
Lạy Gương Mẫu Hoàn Thiện, xin uốn nắn tâm hồn con và dạy con biết tin tưởng, hy vọng và yêu mến như Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ của con, con rất cần sự trợ giúp của Mẹ.
Xin Mẹ hoàn thiện những lời cầu nguyện đơn sơ của con.
Xin Mẹ hướng dẫn từng bước chân con hôm nay và luôn giúp con đến gần hơn với Chúa Giêsu, Con Mẹ.
Lạy Sao Hy Vọng, Sao Biển, xin tỏa sáng trên con và dẫn con đến gần hơn với Vương Quốc của Con Mẹ!
Amen.
Cùng đọc Kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, Lạy Nữ Vương, và Kinh Hãy Nhớ.
Cầu nguyện: “Lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa dâng lên Mẹ Maria” và “Lời cầu nguyện của Hồng y Văn Thuận dâng lên Mẹ Maria.”
CHIÊM NGHIỆM
Một lời nguyện, một suy tư, một quyết tâm để ghi vào nhật ký của bạn:
————————————————————————————
Sự Sống, Sự Dịu Dàng, và Niềm Hy Vọng của Chúng Ta!
Donna-Marie Cooper O’Boyle
Đã được chuyển ngữ
———————————
[1] Mother Teresa, letter to the author, March 7, 1989.
[2] Donna-Marie Cooper O’Boyle, “Mother Teresa Encourages Us to Be Loving Like Mary,” Catholic Exchange, November 19, 2019.
[catholicexchange.com/mother-teresa-encourages-us-to-be-loving-like-mary/]
[3] Diary, 648.
[4] Mother Teresa and Angelo Devananda Scolozzi, Total Surrender, rev. ed. (Ann Arbor, Michigan, Servant Publications, 1985), 102.
[5] Mother Teresa, Thirsting for God: Daily Meditations (Cincinnati, Ohio, Servant Books, 2013), 17-18.
[6] Total Surrender, 144.
[7] Bob French, “Francis Xavier Nguyễn Văn Thuận, an Apostle of Hope,” The Word Among Us, 2024.
[https://wau.org/android_app/article/re_francis_xavier_nguyen_van_thuan_an_apostle_of_hope/?_key=8D23FA1C3FA5B6CF6494EDD83F8C5]
[8] Cardinal Francis-Xavier Nguyễn Văn Thuận, “Ten Rules of Life of Cardinal Nguyễn Văn Thuận.”
[www.nguyenvanthuan.com/ten-rules-of-life.html]
[9] Ibid.
[10] Bob French.
[11] Cardinal Nguyễn Văn Thuận.
[12] Bob French.
[13] Ibid.
NHỮNG BÀI VIẾT LIÊN QUAN:
(1): Niềm Hy Vọng Từ Lời “Xin Vâng” Của Mẹ Maria
(2): Niềm Hy Vọng từ Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria
(3): Niềm Hy Vọng Từ Lời Dạy Của Đức Maria: “Hãy làm theo điều Người dạy bảo.”
(4): Niềm Hy Vọng Không Hề Mất Đi: Lưỡi Gươm Sầu Khổ của Mẹ Maria và Dưới Chân Thánh Giá
(5): Hy Vọng Hiện Trên Tấm Vải Xương Rồng: Đức Mẹ Guadalupe
(6): Niềm Hy Vọng Của Ảnh Phép Lạ: “Muôn Hồng Ân Sẽ Tuôn Đổ Trên Mọi Người”
(7): Niềm Hy Vọng của Lộ Đức: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”
(8): Niềm Hy Vọng của Kibeho: “Mẹ của Ngôi Lời”
(9): Niềm Hy Vọng của Nhân Loại: “Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót”
(10): Hy Vọng và Chữa Lành: “Đức Trinh Nữ của Nụ Cười”
(11): Niềm Hy Vọng từ Ba Lan: Đức Mẹ Czestochowa
(12): Hy vọng cho tâm hồn mệt mỏi: Đức Mẹ Knock
(13): Niềm Hy Vọng từ Champion: “Ta là Nữ Vương Thiên Đàng”