Chuyến viếng thăm Tỉnh DCCT Việt Nam sau gần 20 năm đứt liên lạc của đại diện Trung Ương Dòng

Giới thiệu: Đây là bản dịch của bài tường trình về chuyến viếng thăm tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam của cha Luis G. Hechanova C.Ss.R vào năm 1990. Cha là người Philippines và là Tổng cố vấn của Trung ương Dòng vào thời điểm đó. Kể từ sau biến cố 1975, tỉnh Dòng Việt Nam gần như bị cắt đứt liên lạc với bên ngoài. Chuyến thăm của cha Tổng cố vấn có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu một giai đoạn mới của Tỉnh Dòng Việt Nam. Bài báo nguyên gốc được đăng trên tờ thông tin của Trung Ương Dòng, báo CSsR Communicationes số 78 tháng 11 năm 1990.

Giáo dân tham dự Thánh lễ ngồi phía ngoài nhà thờ tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn. Ảnh cha Luis G. Hechanova C.Ss.R chụp năm 1990

Chuyến thăm cuối cùng tới Việt Nam từ Trung Ương Dòng được thực hiện bởi hai cha Amaral và da Costa vào tháng 1- tháng 2 năm 1971. Đáng lý đã có một chuyến viếng thăm khác vào năm 1975, nhưng kế hoạch đã bị hủy bỏ bởi những biến động về chính trị tại Việt Nam. Kể từ khi đó, sự liên lạc giữa Trung Ương Dòng và các anh em tại Việt Nam trở nên rất hiếm hoi.

Tận dụng lợi thế của việc Việt Nam công bố Năm 1990 là “Năm du lịch”, tôi xin thị thực du lịch hai tuần thông qua các mối quan hệ của cha Griffith ở Bangkok. Giấy tờ được thông qua và tôi nhận được thị thực không có rắc rối ngoại trừ vì không biết tiếng Việt nên tôi không nhận ra  là địa điểm  nhập cảnh được chỉ định sân bay thành phố Hồ Chí Minh (tên cũ là Sài Gòn), chứ không phải Hà Nội như vé của tôi đặt.

Tôi đã nhập cảnh vào TP HCM và cảm thấy cả hai phía hải quan và xuất nhập cảnh khá thoải mái. Trong số những đồ đạc trong hành lý, tôi khai là có mang “vật dụng tôn giáo”. Khi nữ cán bộ hỏi tôi những thứ đó là gì, tôi đã cho cô ấy xem chuỗi tràng hạt từ túi của mình. Cô gạt nó ra và nói: “Không cần phải khai báo.” Chỉ khi hành lý được đưa qua máy quét, cô ấy có yêu cầu tôi mở hành lý để kiêm tra vì có thấy một vài tượng mề đay làm bằng thép, nhưng không có vấn đề gì nghiêm trọng.

Tôi cũng không gặp rắc rối gì khi mang sách và thư từ. Cũng không có bất kỳ hạn chế như với lượng ngoại tệ mà người ta có thể mang vào, mặc dù tôi đã phải tuyên bố khi nhập cảnh và lần khác khi xuất cảnh. Nhưng điều này không có vấn đề gì vì tôi đã đi cùng bởi một trong những học sinh cũ của chúng tôi thông qua hải quan và xuất nhập cảnh và tôi không được yêu cầu đếm số tiền tôi còn lại.

Hiện nay, đường bay tới  Việt Nam được phục vụ bởi năm hãng hàng không: Aeroflot, Air France, Thai Airways, Philippine Airlines, và tất nhiên, Air Viet Nam (nếu ai thích máy bay cổ của Nga). Mất một giờ 20 phút bay từ Bangkok để tới  được TP.HCM. Tôi hạ cánh buổi chiều thứ bảy ngày 14 tháng bảy. Tỷ giá hối đoái tại sân bay cho một đô la Mỹ là 5,800 đồng.

Vì chủ động không thông báo trước chuyến bay do nhiều lý do nên tôi tự tìm xung quanh và thấy một quầy dịch vụ taxi. Người nữ nhân viên sắp xếp một chiếc taxi cho tôi với giá 10 đô la hóa ra lại cũng chính là tài xế! Và cô ấy đã đưa tôi đi trên chuyến đi đáng sợ nhất mà tôi từng trải qua, băng qua các nút giao thông trung tâm thành phố. Tôi thấy có rất nhiều xe đạp, xích lô, xe máy, và thỉnh thoảng xe hơi hoặc xe tải. Phần đáng sợ là rằng tại các ngã tư dường như mọi người đều đi mọi nẻo đường, trong khi tài xế của tôi thường xuyên đi ngược đường! “Có hay xảy ra tai nạn gì không cô?”, tôi hỏi. “Nhiều nhưng không có nghiêm trọng lắm đâu, thưa ông!” (Sau này có một lần bị ngã xuống từ xe xích lô, nhưng không có hậu quả nghiêm trọng, vì tôi vẫn còn sống để kể lại chuyện đó!)

Những người vào Việt Nam với tư cách khách du lịch được yêu cầu phải nghỉ trong khách sạn, một trong số những lí do chắc chắn là để thúc đẩy ngành công nghiệp khách sạn non trẻ của họ. Vì vậy, tôi đã tạm trú ở  một khách sạn trung tâm có giá vừa phải-  Khách sạn Huu Nghi (hoặc Palace) với giá 30 USD, có phục vụ bữa sáng.

Sau đó, tôi tìm thấy chỗ ở thậm chí còn rẻ hơn ở mức 20 đô la và 16 đô la. Trong vòng 48 giờ sau khi đến Việt Nam, các khách du lịch phải đăng ký tạm trú với công an thông qua khách sạn với mức phí 10 đô la và, thật ngạc nhiên, tất cả các khách sạn đều quảng cáo dịch vụ “gia hạn thị thực” như thể đó là điều rất bình thường.

Điều đầu tiên tôi làm khi đến khách sạn là mua bản đồ và cố gắng xác định vị trí nhà Dòng của chúng tôi, vốn không có điện thoại liên hệ. Bản đồ đầu tiên không hữu ích lắm, nhưng cái thứ hai chỉ ra nơi tôi cần đến với biểu tượng của một ngôi nhà thờ. Vì vậy, tôi không gặp khó khăn gì khi chỉ cho bác “xích lô” đến số 38 Kỳ Đồng nằm ở quận 3. Ngay khi các anh em nhận ra rằng vị khách đến từ Rôma được mong đợi đã đến, chuông được kéo liên hồi trong tu viện (như phong tục cũ). Thật không dễ để diễn tả niềm vui của các anh em khi được gặp một vị khách Rôma sau gần 20 năm!

Cha Luis G. Hechanova C.Ss.R (áo kẻ, hàng đầu đứng thứ 5 từ phải qua) chụp hình với cha Giám tỉnh Giuse Trần Ngọc Thao (hàng đầu đứng thứ 6 từ phải qua) và cha Phó giám tỉnh Giuse Cao Đình Trị (hàng đầu đứng thứ 4 từ phải qua)

Do là ngày Chúa Nhật, Cha Phó Giám Tỉnh kiêm Bề Trên Cộng đoàn, Cha Cao Đình Trị, dẫn tôi đi một vòng ngay khuân viên nhà thờ và cộng đoàn.

Cha cựu Giám Tỉnh Henry Bạch Văn Lộc, đang hướng dẫn cho anh chị em dự tòng, một phần nhỏ của trên 800  người lớn nhận lãnh nhận bí tích Rửa tội hàng năm ở nhà thờ của chúng ta. Cha Phê rô Nguyễn Thành Tâm đang đào tạo hơn 50 giáo lý viên dạy giáo lý trong khuôn viên nhà thờ vào các buổi chiều Chúa Nhật. Tôi đã được khuyên là không nên bỏ lỡ việc dự lễ lúc 4 giờ chiều, Thánh Lễ Giới Trẻ với khoảng 1,400 thanh thiếu niên từ 6-26 tuổi.

Những bài thánh ca và bài hát của Tâm rất sống động và được hát trong các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.

Nhà thờ của chúng ta có ba thánh lễ hàng ngày và bảy lễ Chúa nhật đông nghẹt người tham dự. Anh em Dòng Chúa Cứu Thế ở đây có một nhóm giáo dân tích cực tổ chức các khóa học chuẩn bị cho kết hôn và các lớp thăng tiến đời sống hôn nhân với sự tham dự của trên 500 người cho mỗi khóa kéo dài năm tháng. Vào thứ bảy, họ tổ chức  ba giờ hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Và họ có nhiều thứ khác các hoạt động đạo đức bình dân khác trong các mùa chính như Giáng sinh, Tết và Mùa Chay.

Điều đáng lưu ý liên quan tới quyền tự do tôn giáo trong nhà thờ là hành động do chính quyền áp đặt vào tháng 5 năm ngoái đối với Cha Chân Tín, 69 tuổi. Cha đã từng là một nhà phê bình chế độ ông Thiệu và đã xuất hiện trên tạp chí Time.

Với sự thay đổi của chính phủ vào năm 1975, cha được cử làm Uỷ viên Uỷ ban Mặt trận yêu nước Trung ương, một phong trào đoàn kết tất cả những người theo chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, cha  vẫn tiếp tục nói lên suy nghĩ của mình, lúc đầu trong các cuộc gặp cá nhân và sau đó  công khai khi chính phủ công khai chỉ trích Tòa Thánh về việc phong thánh cho các Thánh tử đạo Việt Nam. Cha đã bị giáng xuống ủy ban thành phố và sau đó rớt hẳn.

Trong Mùa Chay năm nay, cha Chân Tín bắt đầu giảng bài về sự hoán cải và bị chế độ coi là khiêu khích. Cha bị ép đưa đi từ tu viện của chúng tôi  và đặt dưới sự giám sát ở một giáo xứ xa xôi nơi một tu sĩ khác đang ở sống một mình.

Gần trưa, tôi đã có một cuộc hội ngộ với cha Giám tỉnh, cha Giuse Thảo, người đã từng là một sinh viên cùng thời với tôi ở Rome từ năm 1964 đến năm 1966. Tình cờ hôm đó là Lễ Chúa Cứu Thế và vào bữa trưa có hơn 80 anh em tu sĩ và các thầy trong diện đào tạo hiện diện. Lúc 2 giờ chiều tôi có một cuộc nói chuyện với khoảng một nửa số thành viên có lời khấn của Tỉnh dòng khi mới tới Việt Nam chưa đầy 24 tiếng đồng hồ!

Một trong những điều mà các anh em có vẻ rất hài lòng và bớt lo lắng là tôi cũng là người Đông Nam Á, tôi không quá khác biệt so với anh em về ngoại hình. “Ngoại trừ vì một điều”, anh em nói vào ngày đầu tiên. “Cha đang đi giày!” Vì vậy, ngày hôm sau, tôi vui vẻ hòa nhập văn hóa tại đây bằng cách chuyển sang dép sandals! Tôi đến thăm chị dâu của Thầy Placido, người đã ở Rome trong 31 năm qua, chị nhầm tôi là một người Việt Nam và bối rối khi thấy tôi nói bằng tiếng Pháp. Chị hỏi: “Sao lại quên hết tiếng Việt vậy?” Khi tôi chụp một số bức ảnh ở một ngôi làng nông thôn, lũ trẻ bắt đầu gọi tôi là Việt Kiều, một Việt Kiều trở về nước!

Du khách có thể tham quan các địa điểm bên ngoài Tp. Hồ Chí Minh nhưng phải hoàn thành hành trình với một công ty du lịch được công nhận trong đó quan tâm đến việc thông báo thích hợp cơ quan chức năng. Vì vậy, vào ngày thứ hai của tôi, tôi đã liên lạc với một đại lý du lịch để giúp tôi lên kế hoạch cho một chuyến đi đến Đà Lạt, Nha-Trang và Huế. Khi tôi thông báo cho các cha, các thầy về kế hoạch của tôi, ai đó đã tiết lộ trong sự nhiệt tình của họ về sự viếng thăm của tôi, họ đã có đã gửi điện tín nói với mọi người để về nhà tỉnh  ngay. Điều đó có nghĩa là tôi có thể đến những nơi đó chỉ để thấy rằng các anh em đã lên TP.HCM để gặp tôi. Vì thế mà chọn ở lại TP.HCM và thăm các nơi gần đó. Bản thân tôi hài lòng với cuộc gặp với các cha, các thầy có thể xoay sở để đến.

Trong số những nơi tôi đã đến thăm là các giáo xứ vùng ven TP.HCM và ở Tây Nam Bộ. Ở đây anh em điều hành các  giáo xứ nhỏ và chia sẻ lối sống đơn giản của người dân. Bản thân cha Giám Tỉnh về mặt kỹ thuật thuộc về Mai-Thôn, một cộng đồng gồm hai linh mục và tám thầy sống rất đơn giản, các anh em trồng trọt lúa gạo và rau xanh, cũng như nuôi một ít gia cầm.

Tôi cũng đi Vũng Tàu, nơi có bãi cát trắng, mịn và nơi này chúng ta đã từng có một tiểu chủng viện bị trưng dụng. Lý do chính là đến thăm bà cố của thầy  Placido năm nay đã 90 tuổi, tôi đã nghe nói, là bà đang hấp hối trên giường bệnh. Tôi đã thực hiện các Nghi thức cuối cùng trong khi bà cố vẫn còn rất tỉnh táo và bà ra đi hai tuần sau đó, được an ủi bởi việc là con trai mình  đã có đã nhờ người đi từ Rome đến thăm người mẹ già.

Vì tôi không thể thăm những nơi chính của Tỉnh Dòng ngoài Thành phố Hồ Chí Minh, tôi dành vài giờ  xem một video do Cha Roch Do, những người đã bắt tay thực hiện dự án rất đáng khen ngợi là ghi lại những thước phim lịch sử của Tỉnh dòng.Nhờ những video này tôi đã có thể hiểu được đôi chút về lịch sử của Tỉnh Dòng.

Từ phải qua: Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng, cha Luis G. Hechanova và cha Giuse Trần Ngọc Thao

Sứ vụ đầu tiên bắt đầu ở Huế bởi các thừa sai Canada gốc Pháp từ những năm 1925. Các cơ sở tu viện khác lần lượt được thiết lập ở Hà nội (1928) , Thành phố Hồ Chí Minh (1933) và nhiều nơi khác nhau. Một điều đáng ghi nhận là ngay từ khi đặt chân tới Việt nam, các thừa sai đã đón nhận ơn gọi bản địa. Họ xây các cơ sở khang trang dành cho công việc đào tạo ở Nhat rang, Đà lạt, Vũng Tàu, và Thủ Đức. Đáng tiếc, tất cả các cơ sở này đã bị nhà nước tịch thu. Đích thân tôi viếng thăm tòa nhà ở Thủ Đức vốn từng là nhà dự tập, tập viện và sinh viên thần học nay bị chuyển làm một bệnh viện công nhưng các tượng ảnh và  huy hiệu dòng vẫn còn nguyên vẹn trong khu vườn.

Nếu như nguồn vốn đầu tư vào các cơ sở hạ tầng đã bị mất, thì ít ra có điều đáng an ủi là vốn đầu tư vào đào tạo nhân sự lại là một câu chuyện thành công. Tới năm 1964, chưa đầy 40 năm sau khi khởi sự sứ vụ, Việt Nam trở thành một tỉnh dòng độc lập đầu tiên tại Châu Á. Lúc cao điểm, có tới hơn 200 tu sĩ Việt Nam. Đương nhiên, những biến động trong Giáo Hội sau Công đồng Vatican II và trong xã hội Việt Nam sau năm 1975 đã để lại hậu quả trên tỉnh dòng. Tuy nhiên, điều làm bất ngờ dễ chịu là tỉnh này có 119 thành viên đã khấn dòng, không kể 31 người đang sống tại nước ngoài và nay thuộc một phụ tỉnh riêng biệt. Trong số những người ở Việt Nam, có 62 linh mục và 31 thầy.

Vì những thay đổi về xã hội sau năm 1975, Tỉnh Dòng đã phải gánh chịu sự chia cắt nhất định. Một số tu viện đã bị tịch thu và các thành viên của cộng đoàn bị phân tán, chấp nhận lưu trú tại các giáo xứ hoặc ở nhà riêng. Với việc giới thiệu hệ thống “livret de famille”, hay hệ thống hộ khẩu gia đình, họ không thể dễ dàng chuyển đi nơi khác, nên hiện tại có 18 linh mục sống một mình tại các giáo xứ, 9 linh mục và 3 anh em sống tại gia đình, 4 linh mục về lại gia đình vào ban đêm, 24 thầy cũng nằm trong tình trạng phải ra khỏi tu viện lúc ban đêm như thế.

Cho đến tận đầu năm nay, việc đào tạo được thực hiện không chính thức theo các nhóm nhỏ, và các anh em sinh viên thần học phải phải làm các công việc mưu sinh để kiếm sống qua ngày. Một trong số họ cho tôi biết mình đã làm nghề xích lô được năm năm. Hằng ngày đạp xích lô từ 5 giờ chiều tới 10 giờ đêm. Từ đầu năm nay, hầu hết anh em đã được theo học các khóa kéo dài 4 năm ở ngay tại nhà Dòng Kỳ Đồng. Anh em dành thời gian ban ngày tập trung vào học tập, lên lớp hoặc thực tập các công việc mục vụ nhưng vẫn phải ra khỏi tu viện lúc ban đêm.

Các sinh viên nằm ở độ tuổi 29-49 thường được gọi là ‘tu sĩ trẻ’ vì cho dù họ kết thúc chương trình đào tạo, họ cũng chưa được truyền chức. Chính quyền kiểm soát việc truyền chức và thông thường không cho phép các tu sĩ được truyền chức chỉ phục vụ tại các tu viện. Các giáo phận sẽ dễ dàng hơn nếu giám mục chứng minh được họ cần linh mục để lấp vào chỗ trống các nhân sự.

Trong một đất nước với 60 triệu dân, Việt Nam có khoảng 6 triệu người Công giáo và 2029 linh mục (1845 linh mục triều và 184 linh mục Dòng). Một quan chức chính phủ cho biết họ thấy tỉ lệ này là hợp lý, nghĩa là một linh mục coi sóc 3000 giáo dân. Do đó, họ cho phép 20 người được truyền chức mỗi năm cho bốn đại chủng viện trên cả nước. Hằng năm, các giám mục trình danh sách các ứng viên cho giáo phận của mình và thuyết phục chính quyền tại sao họ cần thêm linh mục.

Năm nay, một giám mục trình tên của một sinh viên thần học nhưng không cho biết đây là một Tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế. Người này đã được cho phép và đó là cách mà anh em Việt Nam xoay xở để có được cuộc truyền chức đầu tiên sau 12 năm. Sau chuyến viếng thăm, tôi còn nhận được thêm một thông tin là một anh khác đã được chấp nhận truyền chức phó tế, chuẩn bị trở thành linh mục nay mai bởi Tổng giám mục thành phố Hồ Chí Minh. Liệu đây có phải là dấu chỉ cho thấy quyền tự do lớn hơn cho Giáo hội sẽ được chấp nhận trong những năm tới đây? Chúng ta có thể hi vọng như vậy. Ít nhất, các tín hiệu chúng tôi nhận được từ Tòa Thánh khá lạc quan, khi có một phái đoàn từ Vatican chuẩn bị tới Việt nam do đức hồng y Etchegary dẫn đầu.

Ba ngày trước khi kết thúc chuyến thăm hai tuần, một vài giáo dân cho anh em biết: ‘Công an đã biết các cha có khách đến thăm từ Philippines và người này đã ở lại tu viện vào ban ngày. Nhưng vì người này về lại khách sạn vào ban đêm nên không có vi phạm về luật pháp!’ Chắc chắc, chuyến thăm lần đầu tiên sau gần 20 năm là quá ngắn và quá giới hạn. Tất cả việc chuyến viếng thăm có thể làm là mở ra những cơ hội mới của việc liên lạc giữa các anh em bị cô lập ở Việt nam và hi vọng, đặt nền móng mới cho các chuyến thăm sâu rộng hơn trong tương lai tới đây.

Cuối cùng, niềm hi vọng mong mỏi ấy là tình trạng của đất nước và mối quan hệ giữa Nhà nước – Giáo hội sẽ tiếp tục cải thiện và cho phép cha Giám tỉnh Giuse Thao và đại biểu Mát-thêu Phụng được tham dự Tổng Công Hội vào năm tới, để có thể trình bày đầy đủ về hoàn cảnh của anh em ở Việt Nam.

Truyền Thông Thái Hà