Đọc bài liên quan:
(1). Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội: Sở đất ở Thái Hà
(2).Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội: Xây dựng và khánh thành Nhà Hà Nội
(3). Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội: Nhà Tập và Học Viện đào tạo tu sĩ
(4). Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội : Nhà thờ Thái Hà và Việc sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
(5). Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội: Nhà Hà Nội những năm thử thách 1940-1946
(6). Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội: Nhà Hà Nội sau năm 1954 – Cha Paquette và cha Côté
(7). Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội: Cha Giuse Vũ Ngọc Bích
(8). Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội : Thầy Clemente Đạt và Cha Giuse Trần Hữu Thanh
(9). Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội : Cha Giuse Trịnh Ngọc Hiên
THÁI HÀ SAU 1950
Ngày 7-12-1950, cha Alphonse Tremblay. Bề trên Phụ tỉnh đã quyết định đưa cả Học viện và Nhà tập vào Đà Lạt. Cuộc dời đổi được thực hiện ngay sau lễ Giáng Sinh. Nhà Hà Nội chỉ còn: 11 Linh Mục và 6 thầy. Các việc tông đồ mục vụ vẫn duy trì.
NHÀ HÀ NỘI SAU 1954
Ngày 17-6-1954, cha Bề trên Phụ tỉnh Louis Roy viết thư cho cha Bề trên Tỉnh: “Tình thế rất khẩn trương. Tôi đã có những dự phòng khi Hà Nội bị đánh chiếm và thất thủ. Chúng tôi sẽ di tản một số tiểu đệ tử khoảng 24 chú tốt nhất. Giáo xứ không thể thiếu Linh Mục. Tôi đã kêu gọi những người tình nguyện. Hai cha Canada sẵn sàng ở lại… Các trận đánh bùng nổ khắp nơi, với một sự man rợ khó tả được. Tổng động viên đã lấy đi 103 tu sĩ. Lúc này đã có 10 tu sĩ Dòng ta phục vụ dưới cờ. Sắp tới sẽ có từ 21 đến 45 người khác.”.
Tình thế nghiêm trọng và các bề trên đã có những quyết định sáng suốt. Số phận của 1.200.000 người Công giáo Miền Bắc và tu sĩ nam nữ các Hội Dòng đang bị đe dọa trước. những biến chuyển quân sự ngày càng bất lợi cho chính quyền hiện hành.
Trong toàn phụ tỉnh, thời gian ấy đã có 9 thầy học viện, 2 thầy tập và 2 thầy trợ sĩ bị động viên. Các thầy nhà tập khấn Dòng với thời hạn là “Usque ad servitium militare – Cho đến khi bị động viên”. Các tân Linh Mục đang tuổi nhập ngũ có khả năng vào ngành tu Quân đội.
Cha Bề trên phụ tỉnh Louis Roy thăm Hà Nội ngày 7-7-1954.
Nhà Hà Nội còn 4 Linh Mục và 4 thầy. Các ngài dùng mọi khả năng và thời giờ để giúp đỡ những người di cư tìm đường vào Nam, lập danh sách cho cả chục ngàn người mỗi ngày đến đăng ký xin được di tản. Đức Khâm sứ Tòa Thánh John Dooley tha thiết xin các Linh Mục đừng ra đi.
Với hiệp định Genève, tiếng súng đã tạm im, nhưng cảnh hỗn độn diễn ra khắp nơi. Mặc dầu có sự ngăn cản, người ta vẫn đổ xô đi bằng mọi phương tiện để vào Miền Nam. Nhà Hà Nội phải chấp chứa trên 3.000 người đang chờ được lên tàu. Theo thư của cha L. Roy ngày 6-8-1954 thì có 4 cha Canada, một cha Việt Nam và mấy thầy ở Hà Nội suốt ngày lo cho người di cư. Thủ tướng Ngô Đình Diệm kêu gọi dân chúng: “Hỡi đồng bào, mặc dầu chúng ta phải khổ đau và cực lực phản kháng, chúng ta hãy bình tĩnh và hiệp nhất với nhau để giang tay cho những người anh em di cư, thấm khô nước mắt của họ đồng thời phải tức khắc tham gia vào một cuộc chiến Hòa bình và khó khăn để cuối cùng giải phóng đất nước chúng ta thoát khỏi mọi can thiệp ngoại bang và áp bức.”
Ngoài việc tiếp đón, giúp đỡ những người di cư, các cha còn lại: Francois Laliberté, Michel Laliberté, Patrice Gagné, Alexis Trépanier, Giacôbê Đào Hữu Thọ còn phải kiên trì ngồi tòa giải tội lâu giờ. Có người phải chờ đến 2 ngày mới xưng tội được.
Nhà Hà Nội đã chuyển vào Miền Nam những gì là quí báu và quan trọng, cách riêng thư viện. 50 chú tiểu đệ tử được đưa về Đà Lạt rồi cuối cùng về Huế ngày 5-9-1954.
Trong thư 7-10-1954, cha Bề trên Phụ tỉnh Louis Roy cho biết là đã để ở lại Hà Nội các cha Denis Paquette, Thomas Côté, Giuse Vũ Ngọc Bích và hai thầy Marcel và Clément. Đó là những anh em được chọn trong số những người tình nguyện ở lại Hà Nội. Cha Paquette đang làm Bề trên nhà Huế. Cha Côté đang làm linh hướng Nhà Tập 2 và cha Bích đang theo khóa nhà Tập 2 đã rút ngắn thời gian đặc biệt đó để về Hà Nội trước khi bức màn chia 2 miền sập xuống. Chúng ta dành một vài trang cho những anh em ở lại Hà Nội sau biến cố Genève 1954.
CHA DENIS PAQUETTE
Cha Denis Paquetie sinh ngày 7-5-1913. Khấn Dòng 15-8- 1935. Đến Việt Nam trong nhóm sinh viên học viện đầu tiên năm 1935. Chịu chức Linh Mục tại Hà Nội ngày 7-6-1941.
Viết về cha, người tác giả không dấu nổi sự cảm phục đến ngạc nhiên: “Ngài không có ai giống mình: nhà toán học, người lắm nghề: thợ máy, thơ mộc, thầu khoán và nhất là vị tông đồ dân ngoại.” Ngài đã giữ những nhiệm vụ trong Dòng: giáo sư Học viện từ 1941-1945, quản lý nhà Hà Nội từ 1946-1950. Cuối 1945, cha đích thân gặp Hồ Chí Minh, xin phép được vào các nơi tập trung những người khốn cùng. Mấy lần bị nhiễm bệnh, nhưng cha vẫn tiếp tục. Kết quả: 4.000 người được Rửa tội. Sau ngày 19-12-1946, sau cuộc binh biến chống Pháp, cha đã nuôi nhiều tù binh và chăm sóc những người đến tá túc tại nhà Dòng.
Cha đã đến 25 làng quanh Hà Nội, mở trường học cho trẻ em. Cuối 1950, cha được chuyển về Sài Gòn làm quản lý tỉnh. Năm 1951 cha lên Đà Lạt hoàn thành việc xây dựng tu viện và học viện, tiết kiệm cho Dòng hằng chục ngàn đồng. Năm 1953 cha được cử về làm Bề trên nhà Huế. Biến cố Genève 1954 xảy đến, cha tình nguyện ra Hà Nội. Cha nói với cha Laliberté: “Tôi biết những gì đang chờ đợi chúng tôi, nhưng tôi cũng biết là Quan Phòng Chúa luôn có mặt.”. Cha ở Hà Nội, can đảm và vững tin trước mọi khó khăn, đe dọa, lo âu. Ngày 22-10-1958, cha được giấy mời đến công an. Lệnh trục xuất được đọc, có chữ ký của Phạm Văn Đồng. Cha bị đưa đi Hải Phòng, mấy ngày bị hỏi cung và cuối cùng ngày thứ 2, 27-10-1958 cha bị đưa về hướng Bắc và hôm sau 28-10 thì ra khỏi Việt-Nam qua biên giới Việt Trung. Không còn ai nữa. Một mình ở giữa rừng, trên con đường độc đạo mà sau lưng là Bắc Việt nơi cha không còn có quyền sinh sống và trước mắt là “Trung Quốc vĩ đại” đầy bí hiểm bất ngờ. Cha nói “cứ đi thẳng trước mặt và Thiên Chúa sẽ lo.” Sau một quãng đơn độc trên con đường mới lạ của một đất nước mới lạ, ngài đến một trạm gác. Người ta chận ngài lại và hỏi đi đầu. Ngài cho biết là Việt Nam đuổi ngài ra khỏi nước và bảo ngài cứ đường này mà đi. Dĩ nhiên là màn kịch đã được soạn trước. Thế là ngài được Trung Hoa lo cho mọi sự, mua cho ngài chiếc áo ấm, sắm sửa cho ngài những thứ cần dùng, chăm lo nơi ăn chốn ở và cuối cùng đưa ngài đến biên giới ráp Hongkong và trao ngài lại cho chính quyền ở đó, bởi cha là người Canada thuộc liên hiệp Anh. Hongkong đã đưa ngài về Canada.
Trở về Canada, cha dùng thời giờ để giảng cấm phòng và năm 1960 cha trở lại Việt Nam. Cha thành lập giáo điểm CHÂU Ổ. Ngài đã xây hay sửa lại 6 nhà thờ. Lúc về lại Sài Gòn, cha cùng với cha Olivier lo cho trẻ mồ côi, người góa bụa lưu xã Đức Bà. Đức cha P. Phạm Ngọc Chi, ngay sau khi được cử về Giáo phận Đà Nẵng đã kêu gọi ngài trợ lực trong việc lập giáo điểm với “Trung tâm Anphong”. Năm 1974, cha về nghỉ tại Canada và không còn trở lại Việt-Nam sau 30-4-1975. Cha không nghỉ ngơi. Cha hiến mình cho việc truyền giáo tại Uruguay. Cha qua đời ngày 30-3-2005.
Cha Denis Paquette đã để lại gương mẫu con người lúc nào cũng tươi cười, năng động, không quản ngại khó khăn, không bao giờ biết sợ. Chúng tôi đã được tín thư tình yêu của ngài trong cuộc cấm phòng 15 ngày trước khi mặc áo Dòng và đã từng được nghe kể về những gì ngài đã làm trong thời gian ngài ở lại Hà Nội dưới chế độ mới từ 1954 đến 1958.
CHA THOMAS CÔTÉ
Cha Thomas Côtế đã là cha giải tội cho đệ tử, làm Giám học, Bề trên nhà. Đó là một con người lúc nào cũng thích thinh lặng, không to tiếng. Muốn tìm ngài thì một là ở nhà nguyện, hai là ở thư viện. Khi Hà Nội cần người tình nguyện, thì cha đã hiến mình.
Thomas Côté sinh ngày 20-9-1896. Khấn Dòng ngày 15-8-1915, Linh Mục ngày 19-2-1921. Sau khi đến Huế cuối tháng 12-1931, cha học tiếng Việt. Sau đó làm giáo sư La ngữ, giúp cha P. Gagné tại thư viện và nhà Accueil, Cha làm Bề trên nhà Huế từ 1933-1939, thúc đẩy việc truyền giáo cho người lương. Ngài đến với giới trẻ qua phong trào Hướng đạo, tham gia vào nhiều tuần cấm phòng và Đại phúc. Năm 1946 cha ra Hà Nội làm Giám học. Khi Học viện được đưa về Đà Lạt, ngài ở Cité des Pics, rồi về ngôi nhà mới đang còn xây dựng. Sau một thời gian giảng các cuộc cấm phòng ở Sài Gòn, cha được gọi về Đà Lạt làm linh hướng Nhà Tập 2 năm 1954 và khi chia đôi đất nước thì cha tình nguyện về lại Hà Nội, vừa giúp việc ở Tòa Khâm mạng Tòa Thánh, vừa lo mục vụ tại nhà thờ Thái Hà. Cha Côté bị tạm giam ngày 9-7-1959 và tháng 11-1959 thì phải rời Hà Nội. Sứ vụ thừa sai của ngài chưa chấm dứt. Cha làm thừa sai ở Fyan, trở lại làm Giám học từ 1963, làm linh hướng Nhà Tập 2. Xong nhiệm vụ, cha lại trở về giáo điểm Fyan cho đến khi phải rời khỏi Việt-Nam sau biến cố 1975. Cha đến truyền giáo tại Haiti. Cha qua đời ngày 2-9-1987. Nhiều thế hệ Linh Mục Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam mãi ghi nhớ vị Giám học đã để lại dấu ấn sâu đậm với một phương pháp giáo dục vừa hết sức nhân bản, vừa rất mực ăn cần.
(còn tiếp)
Lịch Sử Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam
Lm. Rôcô Nguyễn Tự Do, DCCT