Đức Maria trong Tân Ước (4): Mẹ của Đấng Mê-si-a (Lu-ca 1: 28-33)

(1) Đức Maria trong Tân Ước (1): Cuộc đời của Maria trước khi xảy ra biến cố Truyền tin (Lu-ca 1: 26-27)

(2) Đức Maria trong Tân Ước (2): “Mừng vui lên!” – Ma-ri-a trong tư cách là thiếu nữ Xi-on (Lc 1,28)

(3) Đức Maria trong Tân Ước (3): “Đấng đầy ân sủng” (Lu-ca 1:28)

Sau lời chào đầu tiên với Ma-ri-a, sứ thần Gáp-ri-en truyền ba thông điệp quan trọng như được chép trong Lu-ca 1: 28-31. Mỗi thông điệp đều gợi nhớ đến các nhân vật anh hùng, các lời tiên tri, những chủ đề và niềm hy vọng trong Cựu Ước. Đồng thời, mỗi thông điệp cũng đều báo hiệu cho Ma-ri-a biết rằng Thiên Chúa đang giao phó cho Ma-ri-a một sứ mệnh quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Ngài.

Dưới đây là ba điều Gabriel nói với Mary trong những câu Kinh Thánh này:

  1. “Chúa ở cùng cô” (1:28);
  2. “Cô đẹp lòng Thiên Chúa” (1:30); và
  3. “Cô sẽ thụ thai trong cung lòng mình và sinh hạ một người con trai, và cô sẽ gọi tên con trẻ là Giê-su. . . và Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho người con này ngai vàng của tổ tiên là Đa-vít. . . và vương quốc của Người sẽ không có hồi kết ”(1: 31-33).

Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của ba câu nói trên để xem thử chúng làm sáng tỏ tầm quan trọng của ơn gọi làm Mẹ của Đấng Mê-si-a, Vua của Ít-ra-en như thế nào.

Vì sao Ma-ri-a bối rối?

Sau lời chào đầu tiên của sứ thần, Ma-ri-a được mô tả là “bối rối” (Lc 1, 29). Thoạt nghe, chúng ta có thể cho rằng Ma-ri-a “bối rối” chỉ đơn giản vì cô ấy đột nhiên gặp một thiên thần. Điều này có vẻ hợp lý bởi giả sử bạn đang ở trong nhà của mình và bất ngờ một vị tổng lãnh thiên thần xuất hiện với bạn, có lẽ bạn cũng sẽ thấy bối rối như Ma-ri-a vậy!

Nhưng đó không phải là điều mà Phúc âm Lu-ca muốn thu hút sự chú ý của chúng ta. Lu-ca cẩn thận nói rằng Đức Maria đã cảm thấy bối rối “trước câu nói” (epi tō logō) của sứ thần và Ma-ri-a đã “tự hỏi trong tâm trí lời chào của sứ thần Gáp-ri-en có ý gì đây” (Lc 1, 29). Nói cách khác, Ma-ri-a gặp bối rối về những lời của sứ thần hơn là sự đường đột hiện ra của sứ thần.[1] Đây là lý do giải thích tại sao Ma-ri-a đang cân nhắc trong đầu không phải người đang xuất hiện trước mặt mình là người hay thần thánh nào, mà là “kiểu chào hỏi này có ý nghĩa gì.”

Nhưng nhiều độc giả hiện đại có thể tự hỏi, có gì đáng lo ngại trong lời chào của sứ thần khiến Ma-ri-a bối rối?

“Chúa ở cùng cô” (1:28)

Một phần của sự run sợ của Ma-ri-a có thể là do lời sứ thần nói với Ma-ri-a: “Chúa ở cùng cô.” Đây không phải là lời chào thông thường. Lời chào này và những lời tương tự khẳng định sự hiện diện của Thiên Chúa được đưa ra nhiều lần trong suốt Cựu Ước cho những người mà Ngài kêu gọi để thực hiện một sứ mệnh lớn lao, một sứ mệnh mà tương lai của Ít-ra-en sẽ phụ thuộc vào mức độ họ thực hiện vai trò của mình.

Chẳng hạn, Thiên Chúa nói với I-xa-ác “Ta ở cùng ngươi” khi bảo đảm với  vị tổ phụ này rằng ông sẽ được ban phước với muôn vàn con cháu (St 26:24). Thiên Chúa cũng đưa ra thông điệp tương tự cho Gia-cóp “Ta ở cùng ngươi” – khi hứa rằng Gia-cóp sẽ trở về xứ sở của mình sau khi chạy trốn khỏi người anh em Ê-sau (St 28:15). Những anh hùng vĩ đại khác của Ít-ra-en, chẳng hạn như Mô-sê, Giô-suê và Ghít-ôn, cũng được đảm bảo rằng Chúa sẽ ở cùng họ khi Chúa kêu gọi họ để lãnh đạo toàn dân và bảo vệ dân khỏi kẻ thù (Xuất hành 3:12; Giô-suê 1: 5, 9 ; Thủ lãnh 6:16). Đa-vít được đảm bảo về sự hiện diện của Thiên Chúa với ông vào đầu triều đại của mình (2 Sm 7: 9), và Giê-rê-mi-a đã nghe những lời này khi bắt đầu sứ vụ tiên tri của mình (Gr 1: 8).

Trong suốt Cựu ước, thông điệp cũng rất rõ ràng. Cụm từ “Đức Chúa ở cùng ngươi” được sử dụng khi Thiên Chúa triệu tập ai đó để thực hiện một nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch cứu rỗi của mình. Người đó sẽ bị thử thách hơn bao giờ hết và sẽ cần phải nương tựa vào Thiên Chúa hơn bao giờ hết. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa hoặc sứ thần cung cấp sự bảo đảm thiêng liêng rằng họ không đơn độc trong sứ mệnh của mình: “Chúa ở cùng ngươi.” Như một học giả Tân Ước giải thích, “Cách diễn đạt này không xác định sự hiện diện tĩnh, mà là một sức mạnh  có tính động — Câu nói‘ Chúa ở cùng ngươi ’lấy đi nỗi sợ hãi và ban sức mạnh”. Trong bối cảnh Truyền Tin cho Ma-ri-a, “hệ quả của nó là sự chúc phúc cho Maria, mọi người, thế giới.”[2]

Vì vậy, khi Gáp-ri-en nói với Ma-ri-a, “Chúa ở cùng cô”, sứ thần đang hàm ý rất nhiều điều. Sứ thần đang báo hiệu cho Ma-ri-a ấy biết rằng cô ấy đang đi theo bước chân của I-xa-ác, Gia-cóp, Mô-sê, Giô-suê, Ghít-ôn và Giê-rê-mi-a. Giống như những anh hùng ngày xưa, Ma-ri-a giờ đây đang được kêu gọi tham gia một sứ mệnh lớn lao  trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.[3] Cô ấy vẫn chưa biết nhiệm vụ của mình là gì, nhưng cô ấy biết một điều gì đó lớn lao sắp được yêu cầu đối với cô ấy. Không lạ gì khi cô ấy cảm thấy “bối rối” vô cùng (Lc 1, 29)!

Người phụ nữ không hề sợ hãi

Lời nhận xét đơn giản của Lu-ca rằng Ma-ri-a “tự hỏi” trong tâm trí là lời chào của sứ thần (1:29) hé lộ cho chúng ta biết sự đẹp đẽ trong nội tâm của Ma-ri-a. Từ “tự hỏi” này được dịch từ chữ dielogizeto, xuất phát từ từ gốc Hy Lạp có nghĩa là “đối thoại”. Nó ngụ ý một sự suy ngẫm sâu sắc hơn, diễn ra lâu dài hơn và có kết quả là việc dẫn đến một đức tin nhiệt thành.

Mặc dù Ma-ri-a có thể bối rối trước lời chào của sứ thần, nhưng cô ấy đã vượt lên trên phản ứng cảm xúc ban đầu của mình. Cô ấy không để cho cảm giác “vô cùng bối rối” điều khiển mình và quay lưng lại với những gì Chúa đang chờ đợi ở nơi cô . Thay vào đó, Ma-ri-a đã tham gia vào một cuộc đối thoại nội tâm với Lời của Thiên Chúa để tìm cách hiểu thông điệp của Chúa ban cho cô ấy. Dù gặp khó khăn nhưng cô ấy vẫn đối thoại với Lời của Thiên Chúa.[4]

Như thần học gia Ratzinger giải thích, “Ma-ri-a xuất hiện như một người phụ nữ không biết sợ hãi, một người vẫn điềm tĩnh ngay cả khi đối diện một biến cố hoàn toàn chưa từng xảy ra trong lịch sử. Đồng thời, cô ấy đứng trước chúng ta với tư cách là một người phụ nữ có nội tâm tuyệt vời, người hòa hợp giữa trái tim và khối óc và tìm cách hiểu bối cảnh, ý nghĩa tổng thể của sứ điệp của Thiên Chúa ”[5] Chúng ta với tư cách là độc giả cũng suy ngẫm về ý nghĩa và tự hỏi với dự cảm rất lớn rằng Chúa định cho trinh nữ trẻ người Nazareth này một điều gì đó thật lớn lao.

“Đừng sợ . . . Vì cô đẹp lòng Thiên Chúa ”(Lc 1, 30)

Những lời tiếp theo của sứ thần, “Đừng sợ” (me phobou) lại càng làm tăng thêm sự hồi hộp. Trong một số trường hợp được ghi lại Kinh thánh, cách diễn đạt này đi kèm với sự bảo đảm rằng Thiên Chúa hiện diện với người được nói đến.[6] Chúa nói với Áp-ra-ham: “Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ của ngươi” khi bảo đảm với Áp-ra-ham về sự che chở của Ngài và việc hứa ban cho Áp-ra-ham vô số con cháu (St 15: 1-8). Chúa cũng nói với I-sa-ác rằng: “Ta là Đức Chúa  của Áp-ra-ham, tổ phụ của ngươi; đừng sợ, vì Ta ở với ngươi và sẽ chúc phúc cho ngươi, ”khi bảo đảm với I-sa-ác về những điều đã hứa với gia đình của I-sa-ác (St 26:24). Thiên Chúa bảo dân Israel không được sợ hãi vì Thiên Chúa ở cùng họ và họ sẽ được giải cứu khỏi sự tù đầy và được đưa trở về quê hương(Giê-rê-mi-a 30: 10-11; 46:28). Giống như Áp-ra-ham, I-sác và Ít-ra-en, giờ đây Ma-ri-a cũng được bảo đảm rằng Chúa đang ở với cô và cô cần không phải sợ hãi, lo lắng gì.

Sứ thần Gáp-ri-en tiếp tục đưa ra một lý do rất quan trọng tại sao Maria không nên sợ hãi: cô được đẹp lòng Thiên Chúa (1:30). Trong Cựu Ước, sự ưu ái của Chúa là dấu hiệu sự lựa chọn của Ngài về một người nào đó mà qua đó Ngài sẽ hoàn thành một số công việc quan trọng: Nô-ê được thoát khỏi trận lụt và sẽ là người khởi đầu cho một gia đình nhân loại mới (St 6: 8). Ghít-ôn bảo vệ Ít-ra-en chống lại người Midianites (Thủ lãnh 6:17). Bà An-na thụ thai Sa-mu-en dù bị coi là hiếm hoi (1 Sm 1:18). Đa-vít lấy lại Hòm Giao ước (2 Sm 15:25).[7]

Nền tảng quan trọng nhất để hiểu ý nghĩa của việc “được đẹp lòng Thiên Chúa” được tìm thấy trong câu chuyện về người anh hùng trong Cựu ước, ấy chính là Giu-se. Ở đó, lối diễn đạt này cho thấy Giu-se được xem là người sẽ được giao phó trách nhiệm lớn lao. Khi còn làm nô lệ ở Ai Cập, Giu-se “được đẹp lòng” chủ và được bổ nhiệm làm quản lý nhà Pô-ti-pha, quản lý các công việc hàng ngày của ông. Sách Sáng thế cho biết Pô-ti-pha “đã giao phó tất cả những gì ông ấy có để cho Giu-se phụ trách; và phần ông, ông chẳng bận tâm gì ngoài chuyện ông sẽ ăn món gì đây ”(St 39: 4-6). Tương tự như vậy, khi Giu-se ở trong tù, ông được “sự đẹp lòng trước người trông coi nhà tù” và người cai ngục “trao cho Giu-se cai quản tất cả các tù nhân ở trong nhà tù; và bất cứ điều gì cần làm ở đó, Giu-se sẽ là người thực hiện; người coi ngục không thèm để ý đến bất cứ việc gì do Giu-se trông coi ”(St 39: 21-23). Điều này cho chúng ta hiểu ý nghĩa của việc ai đó “được đẹp lòng” trong mắt người khác trong Kinh thánh. Khi Giu-se được chủ nhân hay người trông coi nhà tù ưu ái, điều đó có nghĩa là Giu-se được họ hết sức tin tưởng. Những trách nhiệm quan trọng được giao cho Giu-se.

Điều này cho chúng ta biết phần nào tầm quan trọng của những lời sứ thần Gáp-ri-en nói với Ma-ri-a: “Cô được đẹp lòng Thiên Chúa.”[8] Câu nói này không chỉ đặt Ma-ri-a ngang hàng với những nhân vật vĩ đại nhất của Cựu Ước, mà còn cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẵn sàng giao phó rất nhiều điều cho sự chăm sóc của Ma-ri-a. Giống như Giu-se, tổ phụ thời Cựu Ước, Ma-ri-a sẽ được giao một trách nhiệm to lớn. Thật vậy, như câu chuyện sẽ sớm tiết lộ, Thiên Chúa nhìn tới Ma-ri-a với sự ưu ái đến nỗi Ngài sẵn sàng giao chính Con của Ngài cho Ma-ri-a.

Thân mẫu của Con vua Đa-vít

Điều mà Gáp-ri-en tiết lộ tiếp theo là sứ mệnh của Ma-ri-a. Cô ấy sẽ trở thành một người mẹ. Gáp-ri-en nói với cô: “Cô sẽ thụ thai trong cung lòng mình và sẽ sinh một người con trai, và cô sẽ gọi tên con trẻ là Giê-su” (Lc 1, 30).

Nhưng đó không phải là tất cả. Gáp-ri-en cũng thông báo rằng Ma-ri-a sẽ không phải là mẹ của con trẻ bình thường  mà là của Đấng Mê-si-a- vị Vua được mong đợi từ lâu! Thật vậy, Gáp-ri-en mô tả người con của Ma-ri-a theo một số cách gợi lại những lời hứa mà Thiên Chúa đã ban cho Đa-vít triều đại vĩnh cửu của ngài.

Đầu tiên, Gáp-ri-en nói với Ma-ri-a rằng người con của cô sẽ được gọi là “Con của Đấng Tối Cao” (1:32) —một danh hiệu có âm hưởng hoàng gia. Vì “Đấng Tối Cao” là danh hiệu dành cho Thiên Chúa trong Cựu Ước[9] và cũng là danh hiệu thiêng liêng phổ biến trong Lu-ca,[10]mô tả Chúa Giê-su là “Con Đấng Tối Cao”  cho thấy ngài là Con của Thiên Chúa[11]— có khả năng ngụ ý nói đến việc trong Cựu ước vua Đa-vít được chỉ định là Con của Thiên Chúa.[12] Dưới khía cạnh này, việc Lu-ca mô tả Chúa Giê-su là “Con của Đấng Tối Cao” gợi lại lời tiên tri của ngôn sứ Na-than (2 Sm 7:14) và các thánh vịnh hoàng gia ( Thánh vịnh 2: 7; 89: 26-27), cả hai đều mô tả vua Đa-vít có hữu mối quan tương quan của tình phụ tử đặc biệt với Thiên Chúa.

Thứ hai, chúng ta có thể thấy điều này rõ ràng hơn nữa trong những câu Kinh Thánh theo sau, những câu này cung cấp nhiều mối liên hệ trực tiếp hơn với những lời đã hứa với Vua Đa-vít và do đó thu hút sự chú ý nhiều hơn đến danh tính đấng cứu thế của Chúa Giê-su:

Chúa sẽ ban cho ngài ngai vàng của tổ phụ Đa-vít, và ngài  sẽ trị vì nhà Gia-cóp đời đời; và vương quốc của ngài sẽ không có hồi kết. (Lc 1: 32-33)

Hãy xem xét những điểm tương đồng rõ ràng giữa Lu-ca 1: 32-33 và những lời Thiên Chúa đã hứa với Vua Đa-vít trong 2 Sa-mu-ên 7: 9-16. Cả hai đoạn văn đều đề cập đến một danh vĩ đại, một ngai vàng, quyền nghĩa thử thiêng liêng, một gia tộc và một vương quốc.[13] Đó là lý do tại sao Brown có thể dễ dàng chứng minh những lời của Gáp-ri-en là một “cách giải thích miễn phí” về lời tiên tri của Na-than, điều đã trở thành nền tảng cho những hy vọng về đấng Mê-si-a của người Do Thái.[14] Brown sắp xếp gọn gàng những điểm tương đồng này như sau:

Lu-ca 1 Sa-mu-en 7
“Ngài sẽ trở nên vĩ đại, và được gọi là Con Đấng Tối Cao” (câu 32a) “Ta sẽ tạo cho con một danh lớn” (câu 9)

 

“Và Chúa là Đức Chúa Trời sẽ ban cho ông ấy ngai vàng của tổ phụ ông là Đa-vít” (câu 32b) “Tôi sẽ thiết lập ngai vàng của vương quốc Ngài cho đến đời đời” (câu 13)

 

“Và ông ấy sẽ trị vì nhà Gia-cốp đời đời” (câu 33a) “Tôi sẽ là cha nó, và nó sẽ là con trai tôi” (câu 14)

 

“Và vương quốc của Ngài sẽ không có hồi kết thúc” (câu 33b) “Và ngôi nhà của bạn và vương quốc của bạn sẽ được chắc chắn cho đến đời đời” (câu 16)[15]

Với nhiều sự ngụ ý đến những lời hứa trong 2 Sa-mu-ên 7, Gáp-ri-en rõ ràng đang có ý muốn nói người con của Ma-ri-a với tư cách là Vua Đa-vít mới sẽ là người hoàn thành những hy vọng liên quan đến triều đại Đa-vít.

Mẹ của Đấng Immanuel

Cuối cùng, chúng ta cũng có thể tìm thấy sự ngụ ý nói đến lời tiên tri về Đấng Immanuel của I-sai-ah 7:14 trong phân đoạn này, nơi sứ thần nói với Ma-ri-a: “Và này, cô sẽ thụ thai và sinh hạ một người con trai, và cô sẽ gọi tên của con trẻ là Giê-su. ”(Lc 1, 31). Trong tác phẩm The Mother of Jesus in the New Testament, John McHugh lập luận rằng câu này là “một trích dẫn thực sự từ bản văn Hy Lạp của Is 7:14”[16]— chỉ có tên của đứa trẻ là khác biệt đáng kể (Immanuel so với Giê-su).

Hãy xem xét lời tiên tri này từ I-sai-ah trong bối cảnh của nó:

10 Một lần nữa ĐỨC CHÚA phán với vua A-khát rằng :

11        “Ngươi cứ xin ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ngươi
ban cho ngươi một dấu
dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.”

12        Vua A-khát trả lời :
“Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách ĐỨC CHÚA.”

13        Ông I-sai-a bèn nói : “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít !
Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao,
mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa ?

14        Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu :
Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai,
và đặt tên là Em-ma-nu-en.

15        Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong
cho tới khi biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt.

16        Vì trước khi con trẻ biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt,
thì đất đai của hai vua mà ngài khiếp sợ đã bị bỏ hoang.

17        ĐỨC CHÚA sẽ đem lại cho ngài, cho dân ngài, cho thân phụ ngài
những ngày như chưa từng có,
kể từ khi Ép-ra-im tách khỏi Giu-đa (vua nước Át-sua).”

 (I-sai-a 7: 10-17)

 Mối liên hệ giữa lời tiên tri này trong I-sai-a 7 và lời tường thuật của Lu-ca về việc loan báo cho Ma-ri rất mật thiết. Joseph Fitzmyer liệt kê bảy điểm tương đồng có thể có, có thể được tóm tắt trong biểu đồ sau:

Ê-sai 7 Lu-ca 1
“Hỡi nhà Đa-vít, hãy nghe đây” (câu 13) “Giô-sép, nhà Đa-vít” (câu 27)
“Hãy cầu xin một dấu chỉ của Chúa” (câu 10) “Đức Chúa Trời sẽ ban cho ”(câu 32)
“ Một trinh nữ ”(câu 14) “ Một trinh nữ ”(câu 27)
“ Sẽ thụ thai ”(câu 14) “ Sẽ thụ thai ”(câu 31)
“ Và sinh một con trai ”(câu 14) “ Và sinh một con trai ”(câu 31)
“ Hãy gọi tên mình ”(câu 14) /“ Hãy gọi tên mình ”(câu 31)
“ Chúa sẽ đem lại . . . Nhà của cha ngài”(câu 17) /“ Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp ”(câu 32)[17]

Ngoài những điểm tương đồng này, Joel Green chỉ ra một điểm nữa: Lời chào của Gáp-ri-en “ Chúa ở cùng cô ” vang vọng lên tên về đứa trẻ được tiên tri trong Ê-sai 7:14, “Immanuel” (nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”).[18] Đây là lý do tại sao Green và những người khác kết luận rằng Lu-ca đang ngụ ý nói đến I-sai-a 7:14: “Sự kết hợp của rất nhiều điểm tương ứng giữa cuộc gặp gỡ  của Gáp-ri-en Ma-ri-a và I-sai-a 7: 10-17 không thể không tạo ra hiệu ứng vang vọng.”[19] Học giả Tân Ước Mark Strauss cũng đưa ra quan điểm tương tự, ông chú ý cách Lu-ca mô tả Maria là “trinh nữ” (parthenon) (Lc 1:27, 34; x. Is 7:14), việc Lu-ca nhắc đến “con vua Đa-vít” (Lc 1:27; Is 7:13), và kết hợp cả lời chào “Chúa ở cùng cô” (Lc 1:28; x. Is 7:14, “Immanuel”) – “tất cả trong bối cảnh mong đợi của dõng dõi vua Đa-ví – cho thấy rằng Lu-ca thực sự nghĩ đến I-sai-a 7,14. ”[20] Do đó, chúng ta có thể tin chắc kết luận rằng trong lời tường thuật của Lu-ca về cảnh này, Ma-ri-a đang được báo tin rằng cô sẽ sinh hạ con trẻ Immanuel đã hứa, người được I-sai-a tiên báo.

Mẹ của Đấng Mê-si-a

Hãy nghĩ đến tất cả những gì sứ thần Gabriel đã nói với Mẹ Maria được gói ghém trong vài câu ngắn ngọn. “Chúa đang ở với cô” báo hiệu rằng Ma-ri-a đang được Chúa kêu gọi để thực hiện một sứ mệnh quan trọng nào đó. “Cô được đẹp lòng Thiên Chúa ” cho thấy rằng Chúa đang chuẩn bị giao trách nhiệm lớn lao cho cô ấy. Đứa con của cô sẽ được gọi là “Con của Đấng Tối Cao”, sẽ ngồi trên “ngai vàng của tổ tiên Đa-vít,” và có một vương quốc sẽ không có hồi kết hé lộ rằng sứ mệnh của Ma-ri-a bao gồm việc trở thành mẹ không phải của con trẻ tầm thường, mà là vị vua Mê-si-a được dân Ít-ra-en mong ngóng từ lâu. Thật vậy, ơn gọi của Ma-ri-a là trở thành Mẹ của trẻ thơ Immanuel mà ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Cô sẽ là người “sẽ thụ thai và sinh một con trai” và là người “sẽ gọi tên Ngài là Immanuel” (Is 7:14). Nhưng vẫn còn nhiều hơn thế nữa. Ma-ri-a hỏi một câu hỏi thực tế quan trọng, mà chúng ta sẽ xem xét tiếp theo: “Điều này sẽ như thế nào, vì tôi không biết đến người nam?” (Lc 1, 34). Câu hỏi này cho chúng ta hai hiểu biết quan trọng. Đầu tiên, nó thúc giục Gáp-ri-en tiết lộ một điều còn kinh ngạc hơn về đứa con của Đức Ma-ri-a — rằng ngài không chỉ là Vua của Ít-ra-en, mà còn là Con chí thánh của Thiên Chúa, Đấng đến từ Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa (Lc 1,35). (Chúng ta sẽ khám phá điều này trong chương 6.) Thứ hai, câu hỏi tự nó tiết lộ cho chúng ta biết điều gì đó về Ma-ri-a và sự cam kết đặc biệt liên quan tới sự trinh tiết mà cô ấy phải có, điều mà chúng ta sẽ xem xét ở phần tiếp theo.

[1] This is quite different from what Luke says about Gabriel’s appearance to the priest Zechariah in the Temple. When Luke describes Gabriel appearing to the priest Zechariah in the Temple, he notes that Zechariah “was troubled when he saw him, and fear fell upon him” (Lk 1:12).

[2] W. C. van Unnik, “Dominus Vobiscum: The Background of a Liturgical Formula” in New Testament Essays: Studies in Memory of Thomas Walter Mason 1893—1958 (Manchester: University Press, 1959), 276, 289. While the phrase is used many times in the OT, only twice is it employed as a greeting similar to what we find in the angel’s announcement to Mary: the angel’s words to Gideon (Jgs 6:12) and Boaz’s words to the reapers in the field (Ru 2:4). In both Old Testament cases, as in Luke 1:28, the verb, however, is not given. The text simply says ho kyrios meta sou, so it is up to the translator to supply a verb. Should the verb be subjunctive (“May the Lord be with you”) or declarative (“The Lord is with you”)? The context is key. A subjunctive verb is typically supplied in Boaz’s greeting in Ruth 2:4 (“May the Lord be with you”) because the parallel response of the reapers clearly expresses a wish, not a declaration (“The Lord bless you”). On the other hand, Gideon responds to the angel’s ho kyrios meta sou by saying, “If the Lord is with us, why then has all this befallen
us?” (Jgs 6:13). This implies that Gideon understood the angel’s words to be a declaration that God was with him, not simply a wish. Hence, most translate the angel’s words in Judges 6:12 as “the Lord is with you.”
Similarly, the context of Gabriel’s words to Mary in Luke 1:28 points to them being seen as a declaration of God’s presence with Mary, not merely a wish. As we saw in the previous chapter, God’s presence working in Mary has already been emphasized in the title given to her, kecharitōmenē. Moreover, as Fitzmyer notes, Luke 1:28 has more similarities to the angel’s words to Gideon in Judges 6:12 (which is declarative) than it does to the subjective wish of Boaz in Ruth 2:4. Fitzmyer, Luke I-IX, 346. Both the Annunciation to Mary and the scene with Gideon involve an appearance of an angel and similar words and themes are found in both accounts. Both are instructed not to be afraid and are presented as having “found favor” with God (Jgs 6:17; Lk 1:30). Both are commissioned for an important task in God’s saving plan; after having been given a mission, each raises a question about the mission and then receives clarification and a sign to reassure him or her about the calling. Both in the end express their consent to God’s call.

[3] “This is no conventional or pious greeting but announces a dynamic power of God’s own presence. . . . The promise or statement of the presence of God runs like a thread through OT history . . . and here reaches a certain culmination.”Nolland, Luke 1-9:20, 50

[4] Edward Sri, Walking with Mary (New York: Image, 2014), 46.

[5] Ratzinger, Jesus of Nazareth: The Infancy Narratives, 33.

[6] This expression recalls the assurance given by heavenly visitors in the Old Testament (Gn 15:1; 26:24; Dn 10:12, 19). It’s also used this way in Luke’s Gospel by Gabriel himself when he appears to Zechariah (Lk 1:13) and by the angels appearing to the shepherds at the Nativity (Lk 2:10).

[7] Sometimes the expression is used when people are making a request. Gideon, for example, asks the angel, “If now I have found favor with you, then show me a sign. . .” (Jgs 6:17). This is also the case with Hannah (1 Sm 1:18), David (2 Sm 15:25), and others (see Gn 18:3; Ex 33:12-13, 16).

[8]  In Luke 1:30 we have an explicit heavenly affirmation of God’s favor for Mary, and this is exceptional. As Gordon Wenham points out, “It very rare for it to be said outright that a man has found favor in God’s sight.” Gordon Wenham, Genesis 1-15 (Dallas: Word, 1987), 145. In fact, Moses is the only other person to receive a heavenly pronouncement of finding favor with God (Ex 33:17). Noah comes close to meeting this criterion as well. Though not directly stated by God or an angel, Noah finding favor with God is stated in the narrative of

Genesis (Gn 6:8). See also Darrell Bock, who notes that in the Old Testament the expression often involves a request fulfilled on condition, but here in Luke 1:30 it is given without any request. Darrell Bock, Luke 1:1-9:50 (Grand Rapids: Baker Academic, 1994), 111.

[9] Gn 14:14-20, 22; Nm 24:16; Ps 7:17; 2 Sm 22:14. Darrell Bock, Proclamation from Prophecy and Pattern: Lukan Old Testament Christology (JSNTSup 12) (Sheffield: Sheffield Academic Press, 1987), 64.

[10] Fitzmyer notes how Luke uses this title for God more than any other New Testament author: Luke 1:35, 76; 6:35; 8:28; Acts 7:48; 16:17. Fitzmyer, Luke IIX, 348.

[11] “According to the angel’s words, Jesus will be ‘Son of the Most High,’ a designation synonymous with ‘Son of God.’ This will be made clearer in v. 35.” Green, The Gospel of Luke, 89.

[12] Cf. 2 Sm 7:14; 1 Chr 17:13; 22:10; 28:6; Ps 2:7; 89:26-27. In fact, Luke associates Jesus’s kingship and sonship elsewhere (cf. Lk 4:41; 22:29, 67-70; Acts 9:20-22). “This was one form of the hope of Israel; cf. Ps. So. 17:23, ‘Lord raise up for them their king, the Son of David’—which was based on the promise in 2 Sm 7:12-14 of a son of God from David’s line on the throne of his kingdom. For literal fulfillment, Jesus as the Son of David (Lk 18:38; 20:41) must have David as well as God for his father.” Christopher Evans, Saint Luke (London: SCM Press, 1990), 162.

[13] See, for example: Edward Schillebeeckx, Mary, Mother of the Redemption(New York: Sheed and Ward, 1964), 9; Richard Nelson, “David: A Model for  Mary in Luke?” Biblical Theology Bulletin 18 (Oct. 1988), 139; Alberto Valentini, “Editoriale: LAnnuncio a Maria,” Theotokos 4 (1996), 286

[14] Brown, Birth of the Messiah, 310-1. Brown also shows how Gabriel quotes that promise from 2 Samuel 7 “in a slightly rephrased manner” (which he notes was customary at the time, as is seen in the Dead Sea Scrolls). Brown, “The Annunciation to Mary, the Visitation, and the Magnificat,” Worship 62 (1988), 253.

[15] Brown, Birth of the Messiah, 310.

[16] McHugh, The Mother of Jesus in the New Testament, 54. Similarly, Strauss concludes: “The description of the birth in v. 31 is verbally similar to Gen. 16:11 and Isa. 7:14 (cf. Judg. 13.3, 5), and may be a conscious allusion to the latter with the name ‘Immanuel’ changed to Jesus.” Strauss, The Davidic Messiah in

Luke-Acts, 88.

[17] Fitzmyer, Luke I-IX, 336. It is surprising that even with these many parallels, Fitzmyer and others do not think that Luke 1:31 is drawing specifically on Isaiah 7:14. It is argued that these phrases in Luke’s Annunciation scene that correspond to Isaiah 7:10-17 also have connections with other Old Testament passages and fit into the typical annunciation scene pattern in the Old Testament. For example, Fitzmyer argues that the description of Mary as “a virgin betrothed to a man” in Luke 1:27 is much closer to Deuteronomy 22:23 than to Isaiah 7:14

(336, 343). Further, “the house of David” is a stereotyped phrase from the wider Old Testament (e.g. 1 Kgs 12:19; 2 Chr 23:3), not just from Isaiah 7:14 (344). Also, “The Lord is with you” is found throughout the Old Testament, but was used specifically as a greeting in Ruth 2:4 and Judges 6:12. When considering Luke 1:31, Fitzmyer argues: “The message to Mary is couched in rather stereotyped OT phraseology for announcing the conception and birth of an extraordinary child” (346). Here, the language seems to echo not just Isaiah 7:14, but Genesis 16:11 as well: “Behold, you are with child, and shall bear a son; you shall call his name Ishmael” (cf. Jgs 13:3, 5). See also Brown, Birth of the Messiah, 300; Nolland, Luke 1-9:20, 51; Bock, Luke 1:1-9:50, 112. They conclude that we cannot know whether Luke was drawing either upon Isaiah 7:14 specifically or on those common themes found in other birth annunciation narratives of the Old Testament. Nevertheless, these  possible allusions to avariety of passages and annunciation accounts in the Old Testament should not rule out the importance of Isaiah 7:14. After all, there is no single Old Testament passage that has more verbal similarities to Luke 1:31 and brings together the various Davidic themes which the Lukan Annunciation account

emphasizes.

[18] Green, Luke, 85, n. 15; See also Strauss, The Davidic Messiah in Luke-Acts,

88, n. 1.

[19] Green, Luke, 85.

[20] Strauss, The Davidic Messiah in Luke-Acts, 88, n. 1. Another link between the two texts is seen in the fact that both the woman of Isaiah 7:14 and Mary are singled out as the ones who are to name the royal child. The husbands are not mentioned in this regard. Valentini, “L’Annuncio a Maria,” 285. Unlike Matthew’s Gospel, in which Joseph is highlighted as the one giving the name to the child (Mt 1:21), Luke portrays Mary as the one who “shall call his name Jesus” (Lk 1:31). Valentini concludes: “Diversamente da Lc 1,13 (cf Mt 1,21), è lei che attribuisce il nome (come in Is 7,14 TM): l’averlo sottolineato è un discreto accenno alla maternità verginale.” Similarly, Montague sees an allusion to Isaiah 7:14 in the words “and you shall call him” (Lk 1:31), thus establishing another link between the virgin Mary in Luke and the young woman in Isaiah 7:14 who will bear the royal child and “who shall call his name Immanuel.” Montague, Our Father, Our Mother, 95-96.